112 Khương thượng Hà nội * ĐT: 0438538337 * * Mobile: 0912445252 * * Sửa chữa, mua bán, trao đổi máy giặt, tủ lạnh, điều hòa; vỏ, lồng máy giặt và linh kiện điện lạnh
Chương Năm: Cảm Quan
I. CẢM QUAN
II. CÁC VẤN ĐỀ về CẢM QUAN
Khó Khăn về Vệ Sinh Cá Nhân.
Đầu Tóc và Bề Ngoài.
Vài Đề Nghị.
I. CẢM QUAN
Người ta chú ý nhiều về các vấn đề do cảm quan rối loạn gây ra ở trẻ nhỏ hơn là ở tuổi thiếu niên, một phần vì những vấn đề này có thể giảm bớt khi trẻ lớn hoặc biến mất khi có chữa trị đặc biệt nơi một số người. Dầu vậy, cảm quan ảnh hưởng hành vi, chuyện học của thiếu niên, vì giản dị là em không thể tập trung tư tưởng vào chuyện học khi giác quan bị kích thích gây bực bội. Cha mẹ cần có hiểu biết rõ ràng về cách mà cảm quan ảnh hưởng đến con, và kể tới chúng khi xếp đặt chuyện học cùng cơ hội làm việc của con, lẫn việc tạo khung cảnh thoải mái trong nhà. Chẳng những vậy cha mẹ cũng cần cho nhà trường hay các tật của con, chúng chi phối việc học của con ra sao trong lớp.
Trục trặc có thể xẩy ra cho bất cứ cảm quan nào trong nhóm bẩy giác quan:
● Hệ Tiền Đình (Vestibular System).
Hệ nằm ở tai trong cho thông tin về đầu và thân hình của ta ở đâu so với mặt đất. Cảm quan này liên hệ đến cảm giác thăng bằng. Các tế bào của hệ ghi nhận cảm quan về thăng bằng và cử động từ cổ, mắt và thân thể. Sự cử động và sức trọng trường kích thích chúng, cho ta biết về hướng đi, vận tốc của cử động, và ta đang di chuyển hay khung cảnh chung quanh di chuyển; điều gì diễn ra trong hệ tiền đình đặt căn bản cho những điều khác và cho kinh nghiệm của ta, và những cảm giác khác được ghi nhận dựa theo căn bản này.
Ai có hệ tiền đình bất toàn sẽ gặp khó khăn trong việc xếp đặt thông tin về cử động, sự thăng bằng, ý niệm về không gian và sức trọng trường. Yếu kém này có thể khiến người ta trở nên nhậy cảm quá độ hay thiếu cảm biết đối với cử động, ai quá nhậy thì không thể điều hòa cảm giác về cử động và hóa ra không chịu được sự chuyển động. Người như vậy trông như vụng về, tay chân không hòa hợp, đi cà giựt hay đâm vào bàn ghế, dễ mất thăng bằng; còn ai quá kém sẽ không chịu được sự chuyển di và cần có nhiều sinh hoạt mạnh mẽ, hoặc tìm cách cưỡng lại sức trọng trường bằng việc thả đầu qua bên thành giường.
○ Ít cảm nhận:
– Hay muốn lắc lư, đu tới lui, xoay tròn
○ Nhậy cảm:
– Gặp khó khăn với những sinh hoạt có di chuyển như chơi thể thao
– Khó mà ngưng lại mau lẹ hoặc ngưng trong lúc có sinh hoạt
– Dễ bị say sóng khi ngồi xe hơi
– Khó khăn với sinh hoạt nào mà đầu không ở vị trí thẳng đứng, hoặc khi chân giở hỏng khỏi mặt đất.
● Cảm Quan về Tư Thế (Proprioceptive).
Hệ về tư thế cho ta biết về vị trí của cơ thể, các phần của cơ thể ở đâu và nó đang cử động ra sao. Đây là cảm quan về vị trí thân hình, phận sự của nó là tăng ý thức về thân thể, góp phần vào việc kiểm soát sự vận động và xếp đặt sự vận động. Cảm quan sinh ra nhờ các tế bào ghi nhận nằm trong bắp thịt, khớp, dây gân, dây chằng và mô liên kết, được kích thích do sự cử động và sức trọng trường.
Ai có cảm quan này bị rối loạn tỏ ra thiếu hiểu biết tự nhiên về vị trí và cử động của đầu và tay chân. Thường thường khiếm khuyết này đi kèm với trục trặc về hệ tiền đình và xúc giác. Người có tật sẽ gặp khó khăn trong việc kiểm soát hoặc theo dõi cử động tinh tế và cử động tổng quát, nên rất khó mà xếp đặt cử động có lớp lang, dẫn tới sự vụng về và bực bội.
Rối loạn về cảm quan này dẫn tới việc nhiều trẻ và người lớn AS, tự kỷ thích có áp lực sâu như đội mũ len trùm kín đầu, chủ ý là mũ bó sát cho họ cảm giác dễ chịu; trẻ nhỏ thì hay chui trong hốc, trong kẹt nơi chật chội để được ép lại làm thỏa mãn. Lớn hơn một chút thì em thích nhẩy trên bàn nhún hoài hủy, vì khi nhẩy các khớp phải chịu áp lực mạnh, cảm giác đè ép làm em thấy thoải mái, hài lòng; với người trưởng thành nay không chui trong gầm nữa nhưng họ vẫn thích khi ngủ thì có gối, chăn đè lên người, hay chân của chồng / vợ gác lên mình thì ngon giấc hơn.
○ Ít cảm nhận:
– Với khoảng cách: Đứng quá gần người khác; không hiểu khoảng cách tối thiểu giữa hai cơ thể.
– Đi lại không khéo léo trong phòng, không biết tránh chướng ngại
– Đâm sầm vào người khác
○ Nhậy cảm:
– Khó khăn với cử động tinh tế, xoay sở với vật nhỏ (cài nút áo, lượm cây kim)
– Khó khăn với việc di chuyển nguyên thân hình để nhìn một vật gì.
● Xúc Giác.
Xúc giác là cảm quan trải rộng khắp thân hình, đóng vai trò lớn lao trong việc xác định sức khỏe thể chất, trí tuệ và tình cảm. Nó cho ta thông tin cần để xếp đặt việc cử động, có ý thức về thân thể và cảm nhận thị giác, luôn cả việc học chữ lẫn kỹ năng giao tiếp. Xúc giác cho ra cảm nhận về áp lực trên thân hình, cử động, nhiệt độ, sự rung động và cảm giác đau đớn. Ta luôn luôn có cảm giác hoặc là bị đụng chạm như y phục, không khí chung quanh; hoặc ta chạm vào vật mà ta đang sử dụng, vào người khác.
Rối loạn xúc giác là việc thần kinh trung ương không diễn giải hữu hiệu cảm nhận mà da truyền về, và người ta có thể chống lại việc bị đụng chạm, hoặc không có phản
ứng khi có đụng vào người, hoặc không phân biệt được sự đụng chạm muốn nói gì tức cho biết tính cách của vật quanh ta (trơn, nhám, lạnh, nóng v.v.).
Một số em có đầu ngón tay nhậy cảm nên không muốn cầm vật gì đặc biệt, trong lớp thầy cô có thể hiểu lầm khi em không chịu làm theo lời yêu cầu, thí dụ mở sách, và cho là em chống báng, không nghe lời. Cha mẹ cần biết ảnh hưởng để giúp thầy cô thông cảm, kế đó hợp tác với trường tìm cách khác, sao cho con hòa vào sinh hoạt ở lớp.
○ Ít cảm nhận:
– Cầm khư khư đồ vật
– Chịu đau giỏi, nhiệt độ hoặc rất cao (nóng) hoặc rất thấp (lạnh)
– Tự hại thân, bóc da, cắn móng tay, gãi mụn đến chẩy máu
– Thích có vật nặng đè lên người
○ Nhậy cảm:
– Sờ chạm có thể gây đau đớn, không thoải mái. Người ta hay rụt lại khi có cử chỉ bầy tỏ tình quí mến như ôm hôn, do đó có thể có ảnh hưởng trầm trọng khi có tình thân với người khác phái. Thí dụ không thích hôn, không thích được ôm.
– Không thích có bất cứ cái gì trên tay và chân
– Khó khăn với việc gội và chải đầu
– Chỉ thích vài loại hàng vải
'Mỗi lần ai sờ chạm tôi là tôi đau đớn, làm như có lửa chạy trong người.'
● Thị Giác.
Thị giác không phải chỉ giới hạn vào khả năng thấy được của mắt, mà còn muốn nói khả năng nhận biết dấu hiệu, đoán trước chuyện gì sẽ đến và chuẩn bị việc hồi đáp. Nó cho ta thông tin về các vật và người chung quanh, giúp ta xác định đường ranh giới chung quanh khi ta di động. Hệ tiền đình có ảnh hưởng lớn lao đối với cử động của nhãn cầu như dán mắt vào, dõi mắt, trụ tầm nhìn và phối hợp hình ảnh của hai mắt; nó cũng cho tác động sâu xa về việc xếp đặt dữ kiện thâu thập bằng mắt, cho ra ý thức về không gian.
Người có hệ tiền đình rối loạn thường gặp trục trặc với việc diễn giải về không gian khi nhìn xung quanh, lẫn kỹ năng căn bản về cử động nhãn cầu. Bởi não xếp đặt không hữu hiệu cảm giác mà mắt đưa về với cảm giác mà thân thể ghi nhận, việc đọc, viết, làm toán có thể hóa khó khăn. Thiếu niên cũng thấy khó chơi những sinh hoạt nào đòi hỏi sự điều hợp mắt và tay như chơi bóng rổ, bóng bàn, bắt banh, chụp banh, thẩy, ném; em có thể cảm thấy bị choáng ngợp do người và vật di chuyển chung quanh mình.
○ Ít cảm nhận:
– Có thể thấy vật sậm mầu hơn, hình dạng không rõ, đường nét hóa mờ.
– Có người nhìn bằng khóe mắt vì thị giác ngay giữa mắt bị mờ; người khác nói là vật nhìn từ giữa mắt được phóng đại, còn nhìn ở khóe thì bị mờ
– Nhận định kém cỏi về chiều sâu – có vấn đề với việc bắt và ném, vụng về; điều hợp kém mắt và tay thí dụ như chụp banh để ném vào rổ.
○ Nhậy cảm:
– Thị giác bị sai lệch, đồ vật và ánh sáng chói có thể thấy là bay nhẩy lung tung
– Hình ảnh hóa vỡ vụn, như là hệ quả của quá nhiều nguồn.
– Chú trọng vào chi tiết (như hạt cát) thì họ được vui thú hơn là chú trọng vào
tổng thể.
● Thính Giác.
Thính giác làm việc chung với hệ tiền đình để xếp đặt cảm giác về âm thanh và cử động. Chúng hòa hợp chặt chẽ vì cả hai bắt nguồn từ các tế bào tiếp nhận nằm ở tai trong, tế bào được không khí và sóng âm thanh kích thích. Nghe là khả năng tiếp nhận âm thanh và ta sinh ra hoặc có thể nghe hoặc không thể mà không thể học được. Mặt khác hiểu được âm thanh ta nghe là kỹ năng phải học mới có. Kỹ năng này đòi hỏi ta sử dụng cảm giác mà hệ tiền đình ghi nhận, và học cách tương tác có ý nghĩa với môi trường xung quanh. Từ đây dẫn tới kỹ năng diễn giải khéo léo âm thanh ta nghe được, có sự phân biệt tiếng động làm nền và tiếng động có nghĩa, như phân biệt tiếng xe lửa chạy đằng xa với tiếng người nói chuyện với ta, dẫn tới kỹ năng tinh tế là hiểu được ngôn ngữ.
Ai mà kỹ năng nghe và hiểu ngôn ngữ bị yếu kém sẽ gặp khó khăn trong việc nhận ra sự tương đồng và dị biệt của những chữ, khó theo dõi tiếng người vì bị tiếng ồn chung quanh chia trí họ, và cũng có thể bị trục trặc về việc nói.
○ Ít cảm nhận:
– Âm thanh có thể chỉ nghe được một bên tai, tai kia hoặc không nghe được chút nào, hoặc chỉ nghe được một phần
– Có thể không nghe ra một âm đặc biệt nào.
– Thích nơi đông đảo ồn ào, nhà bếp, cửa sập và đồ vật phát ra tiếng
○ Nhậy cảm:
– Âm lượng có khi khuếch đại, và âm thanh chung quanh bị biến cách và nhì nhằng không rõ
– Không thể lọc ra những âm đặc biệt, khó chú tâm.
– Có thể nghe được âm trầm, đặc biệt nhậy cảm với kích thích thính giác, thí dụ nghe được cuộc trò chuyện ở chỗ xa.
– Thính giác hư hại cũng có thể ảnh hưởng đến sự thăng bằng.
– 'Bạn có nghe tiếng ồn trong đầu không ? Nó đập thình thình và rú lanh lảnh. Làm như có xe lửa chạy rầm rầm xuyên qua tai.'
● Khứu Giác.
Giác quan này cho thông tin về những mùi khác nhau và có liên quan chặt chẽ với vị giác. Ai nhậy cảm quá độ có thể ngửi được những mùi mà người khác không nhận ra và có khuynh hướng tránh loại thực phẩm, đồ vật, người hoặc nơi chốn nào có mùi mà họ không thích, không chịu nổi, trong khi các mùi này không gây phản ứng gì nơi người khác. Vì vậy họ có thể bị mang tiếng là khó tánh. Ngược lại ai cảm nhận kém có thể không để ý hoặc làm ngơ mùi mà người khác thấy khó chịu, và có thể thích ngửi hoặc nhận ra đồ vật, người khác bằng cách ngửi; thí dụ là khi đi chợ hoặc sắm hàng thì họ phải cầm món đồ hay thực phẩm lên ngửi mới biết đó là gì. Cử chỉ này lạ lùng khiến người khác chú ý và có khi tạo ấn tượng bất lợi, có nghĩa tật về cảm quan ảnh hưởng đến kỹ năng giao tiếp và sự hòa hợp vào cộng đồng.
○ Ít cảm nhận:
– Có người không có ý thức về khứu giác và không nhận biết những mùi nồng.
– Có người có tật hay liếm vật.
○ Nhậy cảm:
– Mùi có thể quá nồng đối với họ và làm họ ngợp
– Có vấn đề với việc đi toilet
– Không thích ai có mùi đặc biệt nào đó, hoặc một loại nước hoa, xà phòng gội đầu có mùi rõ rệt, v.v. Họ kể rằng mùi như của chó, mèo, thuốc bôi deodorant, mùi quá nồng của kem bôi sau khi cạo râu làm họ chịu không được, mùi dưa muối, mùi nước hoa làm họ muốn khùng và muốn ói.
● Vị Giác.
Người mà vị giác bén nhậy có thể chống đối mạnh mẽ các loại thực phẩm có tính chất đặc biệt nào đó như cứng, mềm, nóng, trơn v.v. và có thể mắc nghẹn khi ăn chúng. Hệ quả là có người có lối dinh dưỡng thật giới hạn vì chồi vị giác (taste buds) trong miệng hết sức nhậy cảm. Người khác ít nhậy hơn có thể liếm hoặc ăn bậy, bỏ vào miệng nhai những tạp vật như gạch, gỗ, và ưa thích các món hoặc rất nóng hoặc rất cay.
○ Ít cảm nhận:
– Thích thực phẩm có nhiều gia vị.
– Ăn bắt cứ cái gì: đất, cỏ, vật bậy bạ
○ Nhậy cảm:
– Vài mùi và thực phẩm có mùi quá mạnh làm họ ngợp.
– Vài tính chất của thức ăn gây khó chịu, có trẻ chỉ ăn thức ăn mềm và đều như dễ nuốt như khoai tây nghiền hoặc cà rem.
II. CÁC VẤN ĐỀ về CẢM QUAN
Một số người tự kỷ bị đau đớn vì cảm nhận như ánh sáng chói mắt, mùi nồng, tiếng bong bóng nổ đinh tai nhức óc với họ làm họ rất kinh sợ v.v. Phản ứng này xẩy ra bất kể đó là người có khả năng cao hay thấp, tuy nhiên có vẻ như ta gặp tật nhiều hơn ở người có ít khả năng. Người bình thường có thể làm chủ phản ứng của mình bằng cách chú tâm vào cảm quan nào cho thông tin quan trọng, và làm ngơ những cảm giác khác không quan trọng bằng; tuy nhiên người tự kỷ không làm được vậy. Do đó thiếu niên tự kỷ gặp nhiều khó khăn trong môi trường chung quanh, trường họ, vào lúc chính em đang có thay đổi về cơ thể, tâm tính làm cho sự việc hóa tệ hơn. Chuyện đáng nói khác là ba mẹ và nhà trường, xã hội mong đợi em nhiều hơn vì nay đã lớn, những hành vi có thể nhân nhượng lúc còn nhỏ như la hét, khóc lóc nay không còn được đối xử dễ dãi nữa mà thiếu niên bị đòi hỏi phải cư xử có kỷ luật, tuân theo thông lệ của xã hội hơn. Nhưng đó là chuyện khó làm trong hoàn cảnh mới như ta sẽ giải thích tiếp đây.
Ở trung học có những vấn đề gì về cảm quan ? Thử nhìn khung cảnh ở trung học mà đa số học sinh quen thuộc và ta sẽ thấy nhiều vấn đề có thể xẩy ra. Ở tiểu học trẻ thường ở cả ngày trong một lớp không thay đổi, hoặc nếu có đổi lớp thì tất cả học sinh cùng đi, và các em có một thầy hay cô trọn năm học. Lên trung học thiếu niên đổi lớp nhiều lần trong ngày, mỗi em đi mỗi ngả không còn đi chung với bạn, và học nhiều thầy cô khác nhau. Chuông reo là học sinh túa ra hành lang ồn ào chen lấn, nó có nghĩa khi đi từ lớp này sang lớp khác thiếu niên đụng chạm nhiều người, sự việc có thể gây đau đớn cho em nào có xúc giác bén nhậy.
Khi Ben đi trong hành lang lớp học có đổi giờ đầu tiên trong ngày, em có thể làm ngơ khi người khác đi qua lại và chạm vào người em, nhưng tới cuối ngày và là lần đổi
giờ thứ năm, khi có ai đi sát vào người em thì Ben nổi xung giận dữ, la hét là người khác cố tình đâm sầm vào em. Phản ứng thay đổi này có thể được xem là do em đã lo lắng trước đó rồi, hoặc nó xẩy ra vì đầu ngày sự đụng chạm chưa nhiều và em còn tươi tỉnh, có thể chịu đựng được, tuy nhiên tới cuối ngày sự đau đớn và căng thẳng bị dồn nén khiến em có thể bùng ra.
Nhiều chuyện trong môi trường tác động lên xúc giác, thị giác và thính giác, cũng như đòi hỏi em sử dụng cảm quan của hệ tiền đình và cảm quan sâu, làm trẻ bị lo lắng, sợ hãi. Kể sơ ra thì ta có ánh đèn chói trong lớp, tiếng chuông reo lanh lảnh đổi giờ học, loa phóng thanh oang oang bất ngờ, tiếng nói chuyện huyên náo lúc ra chơi hay lúc họp toàn trường, hành lang mới sơn mùi nồng nặc. Hệ quả là trẻ mệt nhoài lúc tan học về nhà, em nào tự chủ được thì lầm lì không nói, em nào kiệt sức vì phải nỗ lực đối phó ở trường sẽ xả ra bằng cách ăn vạ vì chuyện rất nhỏ không vừa ý.
Cha mẹ nào tinh ý quan sát và biết tật của con, nói rằng họ để con ở yên trong phòng một hai tiếng đồng hồ cho dịu xuống, sau đó mới hỏi han chuyện học hành trong ngày của trẻ. Người lớn kể lại tan học về nhà là họ rúc luôn trong phòng cho đến giờ ăn tối mới ra ngồi ở bàn với cả nhà, cha mẹ biết ý không gọi con ra mà đi lên phòng ngồi với con nếu muốn gần trẻ. Sự việc cho thấy đó là một cách cha mẹ thích nghi với tật của con, thay vì ép buộc trẻ làm điều em không thể làm được là chạy chơi như anh chị em trong nhà.
Hệ cảm quan có thể bị kích động trong nhiều khung cảnh khác. Phòng ăn cũng cho nhiều kích động không kém gì việc đi lại trong hành lang lúc đổi lớp. Ngồi trong phòng ăn là kinh nghiệm làm nhiều học sinh AS bị ngợp vì sự ồn ào (thính giác), mùi vị thức ăn (vị giác, khứu giác), học sinh đâm sầm vào nhau (xúc giác), phải giữ cho khay thức ăn thăng bằng (hệ tiền đình; cảm quan về vị thế). Trong giờ ăn 20 phút, trọn hệ thống cảm quan của thiếu niên có thể bị kích thích quá độ, và kết quả là có hành vi không hợp như nổi xung, ăn vạ, la lối vì chuyện mà người khác coi không có đáng gì, hoặc em lầm lì ngậm miệng và chỉ bung ra khi về nhà, hoặc sau đó từ chối không chịu hợp tác trong lớp vì quá mệt.
Kinh nghiệm trong giờ thể dục và trong phòng thay quần áo cũng có thể liên quan đến giác quan. Thí dụ cha mẹ kể là con luôn luôn tìm cách tránh giờ tập thể dục, hoặc em viện cớ không khỏe, bỏ quên đồng phục thể thao ở nhà v.v. Rất có thể đó là do nay em ý thức mình không khéo tay chân trên sân chơi, hoặc y phục gây khó chịu về xúc giác, khó cài khó cởi làm em mất nhiều giờ hơn các bạn và bị chọc ghẹo.
Một nhận xét khác là người tự kỷ có khi không thể xếp đặt nhiều nguồn thông tin thành một ý thức chung, thí dụ ta nghe tiếng còi xe cảnh sát, thấy đèn chiếu nhấp nháy từ xa, thì tự động hiểu có việc bất thường và phản ứng là dừng lại nép vào lề. Người tự kỷ không suy nghĩ có hệ thống như vậy, mà nói rằng họ chỉ có thể chú tâm vào một nguồn cảm quan hoặc thính giác hoặc thị giác mà không thể cả hai. Nghe thì không thấy, việc muốn nói điều họ thấy không có nghĩa gì với họ và ngược lại; hiểu biết này có thể giải thích sự kiện là dường như một số người có phản ứng chậm so với cảm giác, và ai tiếp xúc hay chăm sóc người tự kỷ cần biết điều ấy.
Thí dụ đưa ra là khi mở máy điện toán thì màn ảnh bật sáng cùng lúc với tiếng bíp, đa số người cảm nhận được vậy nhưng có người tự kỷ nghe tiếng bíp trước, và phải ba giây sau mới nhận ra là màn ảnh bật sáng; họ cho biết là chỉ có thể dùng một cảm quan vào một lúc mà thôi và họ chọn dùng thính giác trong trường hợp này. Người khác như tiến sĩ Temple Grandin phản ứng cách khác, cô giải thích là mình suy nghĩ hoàn toàn bằng hình và không hiểu suy nghĩ bằng lời, ngôn ngữ là sao; cô gặp khó khăn với âm
thanh vì thính giác quá nhậy, không thể lọc bỏ những tiếng động không cần thiết như đa số người có thể làm một cách tự nhiên.
1. Khó Khăn về Vệ Sinh Cá Nhân.
Một số thiếu niên tự kỷ gặp khó khăn đôi chỗ về việc tự lo thân do có trục trặc cảm quan. Dấu hiệu của việc này có thể lộ qua việc em nhất định không chịu làm động tác nào đó, hoặc ăn vạ, la hét khi tới cùng một điểm trong thông lệ về vệ sinh cá nhân. Thí dụ không chịu cho chải đầu, đánh răng, lau mặt, gội đầu; nếu để ý và phân tích bạn có thể xác định con bị trục trặc phần nào trong thông lệ. Em nào nghe lời và có khả năng thì có thể chịu làm khi được nhắc nhở điểm ấy, mà để tự mình thì sẽ không làm. Dưới đây là vài thí dụ về các vấn đề thông thường do cảm quan gây ra, và gợi ý giải quyết.
● Gội đầu.
Đây có thể là vấn đề do nhiều nguyên nhân khác nhau mà bạn cần tìm ra bằng cách phân tích phản ứng của con; điều cần nhớ là ta không cần phải gội đầu mỗi ngày, như vậy bớt gội đầu thường sẽ giúp làm giảm sự khó chịu tới mức tối thiểu.
-– Thiếu niên không muốn đưa đầu ngay dưới vòi sen tỏa nước / hoặc không muốn lấy tay xát xà phòng vào tóc và chịu để cho bạn làm như vậy nhưng không thích. Chuyện xẩy ra nhiều phần là do đỉnh đầu của em nhậy cảm với sự cọ sát, đây là tật hay thấy nơi một số trẻ tự kỷ và có một số cách giúp em như giảm áp suất của vòi sen để tia nước bắn ra nhẹ hơn nếu được, hoặc cho con dùng lon múc nước gội đầu. Bạn cũng có thể xoa bóp mạnh tay đầu của con vài phút trước khi tắm, giải thích là bạn sẽ chà năm lần tới lui, hoặc báo trước là sẽ dội ba lon nước thí dụ vậy; lý do là ta dễ dàng chịu cho làm điều không thích khi biết có giới hạn, và khi ta làm chủ được sự kiện.
-– Có khi thiếu niên chịu được áp lực vào đầu như tia nước vòi sen, mà không chịu được xà phòng gội đầu; em có thể nhậy cảm với mùi hay chất nhờn, trơn. Nếu vậy bạn có thể dùng xà phòng không mùi hoặc bánh xà phòng; tốt nhất là dẫn con đi phố và cho phép con chọn lựa xà phòng theo ý riêng.
-– Em cho xát xà phòng vào tóc, vò đầu mà không thích cho nước chẩy xuống mặt hoặc không muốn mặt bị ướt. Giải pháp là em có thể ngồi trong bồn tắm vò xà phòng vào tóc, ngửa đầu ra sau dùng lon múc nước dội đầu; bạn có thể tránh không cho nước chẩy xuống mặt bằng cách cuộn một khăn mặt và đặt ngang trán. Kế nữa dùng xà phòng gội đầu cho em bé thì sẽ không bị cay mắt.
● Chải Đầu.
Nếu thiếu niên chống đối không cho chải đầu thì có lẽ em có da đầu nhậy cảm; em có thể chịu chải tóc hai bên đầu và đằng sau nhưng không cho đụng vào đỉnh đầu. Bạn có thể làm như ở trên là dùng tay chà xát mạnh đỉnh đầu của con, dạy con làm vậy để về sau tự em làm cho mình. Tập em quen với sự cọ sát bằng cách dùng lược bàn chải có sợi mềm, làm giảm nhậy cảm trên đầu như chải mới đầu một lần, sau đó từ từ tăng lên nhiều hơn cho tới một giới hạn chịu được. Hớt tóc em ngắn, cắt gọn ghẽ để em không mất công chăm sóc đầu tóc.
● Đánh Răng.
Đây có thể là vấn đề lớn cho một số người tự kỷ; răng và lợi của họ đặc biệt nhậy cảm nên rất khó thuyết phục họ đánh răng đều đặn, giữ vệ sinh răng miệng nếu việc đánh răng gây đau đớn. Chẳng những đây là vấn đề về vệ sinh mà còn là vấn đề về sức khỏe, vì bệnh của nướu răng và sâu răng có thể gây trở ngại lớn về lâu về dài. Một cách làm giảm sự nhậy cảm là dạy con dùng ngón tay sạch chà nướu răng tới lui vài lần trước khi đánh răng; hoặc nếu con chịu thì bạn làm chuyện ấy cho con và nếu cần thì đeo bao tay mà làm. Bàn chải thì dùng loại sợi mềm hay rất mềm; nếu quá nhậy cảm thì dùng khăn lông lau mặt nhúng vào nước thuốc súc miệng có fluoride mà chà răng cũng sạch. Đôi khi có trẻ chịu dùng bàn chải điện, nếu nó giúp được con thì nên cho em dùng.
● Toilet.
Nói chung thì khi bước vào tuổi thiếu niên, trẻ tự kỷ biết dùng toilet và không có vấn đề gì, tuy nhiên một số em tiếp tục gặp trở ngại hoặc về thể chất, hành vi hoặc vì em không biết nói để diễn tả. Lý do có thể là cảm quan, như đèn sáng quá khi từ ngoài bước vào thương xá làm em không cầm lại được và phải xả ra. Em khác có thể ngủ say sưa, không cảm được sự thúc giục phải đi toilet và tè dầm. Trong lớp em có thể không giải thích được là cần đi toilet khi bị yêu cầu ngồi tại chỗ, và không kiểm soát nổi bọng đái. Vì có nhiều nguyên nhân khác nhau như vậy, trước khi muốn giải quyết vấn đề nào bạn cần hiểu vấn đề đặc biệt đó là gì; nếu được thì hỏi ý chuyên viên về hành vi để giúp bạn cách áp dụng phương pháp.
2. Đầu Tóc và Bề Ngoài.
Mọi trẻ thiếu niên cần biết về việc chăm sóc diện mạo bên ngoài và y phục, nhưng nếu muốn con tự kỷ hòa nhập hoàn toàn với các bạn, cha mẹ cần dạy con nhiều hơn về việc có đầu tóc gọn ghẽ, y phục, mốt, có bạn khác phái, và tại sao điều sau này lại quan trong cho bạn bình thường cùng lứa.
Bề ngoài dễ coi là chuyện quan trọng cho mọi lứa tuổi, nhưng cha mẹ cần biết là điều này có ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn trong tuổi thiếu niên. Đây là năm tháng mà em bắt đầu chú tâm đến diện mạo của mình, mặc y phục gì, quần áo nào hợp hay không hợp thời trang, thế nào là đúng điệu hay không đúng điệu; nhiều khi với trẻ bình thường việc đúng mốt quan trọng hơn là có điểm cao trong lớp. Ít nhất thì điều quan trọng cho trẻ tự kỷ là có bề ngoài gọn gàng, dễ coi, và nếu có y phục hợp thời thì càng giúp em hòa với chúng bạn nhiều hơn nữa. Điều này đúng bất kể em học lớp đặc biệt hay lớp bình thường, và cha mẹ cần chú ý để hỗ trợ con, nhất là khi con không biết nói hoặc biết nói mà không có chữ để diễn tả ý mình. Thiếu niên bắt đầu biết nhận xét, so sánh, biết là mình khác người vậy bạn cần giúp con giống với chúng bạn chừng nào tốt chừng đó. Người tự kỷ nói rằng ngay từ ngày đầu tiên nhập học điều quan trọng là đừng để em trông khác người, y phục đúng điệu sẽ giúp em dễ kết bạn và tránh cho em bị bắt nạt; dù thiếu niên có khả năng cao hay thấp bạn cần dạy con những điều sau:
- Quan trọng của việc sạch sẽ và có vệ sinh cá nhân.
- Mầu sắc, kiểu nào hợp với kiểu nào, hợp với tuổi của em. Cách dễ nhất là chọn y phục mầu trơn.
- Thời trang năm nay ! Có khi nhãn hiệu nổi tiếng là điều quan trọng.
Có thiếu niên AS rất kỹ lưỡng về y phục và thích kiểu mới nhất, mà cũng có em gần như không để ý gì tới vệ sinh cá nhân và hình dạng bề ngoài. Em có thể quên dùng xà
bông khi tắm, mặc lại y phục dơ ngày này sang ngày khác và quên không thay quần áo lót. Cha mẹ kể chuyện là phải nhắc nhở hằng ngày con đã lớn việc tắm rửa gội đầu. Để giải thích thì trong vài trường hợp, chỉ giản dị là trẻ quên; khi em gặp khó khăn trong việc chú tâm hoặc mê mải với nhiều chuyện khác thì sự lo ngại về bài thi sắp tới hoặc xe bus ồn ào làm quên hết mọi việc. Vấn đề cũng có thể do cảm quan như mùi của xà phòng tắm hay xà phòng gội đầu. Thiếu niên có thể không thích té nước vào da, không chịu được mặt ướt nước, cảm giác thoa xà bông hay khăn lông lau thân hình.
Chuyện khác là trẻ không để ý tới ai, nhớ là ai mặc gì do đó ngạc nhiên là lại có người để ý tới y phục của chúng. Xúc giác nhậy bén có thể khiến trẻ thích mặc quần áo cũ, mềm, rộng, buông thả hơn là y phục mới, vải cứng hơn, bó sát với thân hình.
Nếu chỉ có số tiền giới hạn để mua y phục thì tốt hơn nên mua y phục hợp thời loại second hand hơn là quần áo mới mà không đúng kiểu; hoặc tìm cửa hàng bán với giá phải chăng. Giả dụ bạn không biết thời trang năm nay thì nên nhờ anh chị của trẻ cố vấn, hoặc hỏi ý kiến thiếu niên khác, nhờ em cố vấn cho bạn hoặc đi phố cùng với bạn để chỉ dẫn cách lựa y phục. Bạn có thể nghĩ là mình biết nhưng bạn sẽ ngạc nhiên với thời trang bọn trẻ.
- Quan sát hay hỏi xem kiểu đầu tóc năm nay là sao, và ướm thử xem con có thuận.
3. Vài Đề Nghị.
Để đối phó, hiểu rõ hơn về thế giới cảm quan của từng người sẽ cho phép bạn giúp em tăng trưởng trong môi trường thoải mái hơn. Những ý tưởng dưới đây nhằm giúp tạo môi trường thoải mái cho cá nhân, tránh cho việc ngũ quan của các em bị kích thích quá mức. Những điểm chính cần nhớ là:
– Có óc sáng tạo:
Dùng óc tưởng tượng của bạn để nghĩ ra những kinh nghiệm cảm quan tốt đẹp hoặc cách thức
– Có ý thức:
Biết là rối loạn cảm quan có thể là lý do cho vấn đề, hãy luôn luôn xem xét khung cảnh.
– Chuẩn bị:
Luôn luôn khuyến cáo em về bất cứ kích thích cảm quan nào mà em có thể gặp; thí dụ như chỗ đông người.
Khi trẻ nhậy cảm với kích thích và có thể sinh ra phản ứng mạnh, cha mẹ có thể làm những điều sau để giúp con.
● Xác định những dấu hiệu là thiếu niên bị kích thích quá độ. Có em phản ứng chỉ trong vài giây, em khác thì sự bực bội tăng lên chậm chạp hơn. Mỗi thiếu niên có cách đáp ứng khác nhau mà khi quan sát cẩn thận cha mẹ có thể nhận ra diễn tiến, thí dụ có em lắc lư nhẹ trong ghế khi kích thích tăng lên, và nếu không giải quyết được thì em bắt đầu phẩy tay. Khởi sự là làm bên dưới gầm bàn vì em biết phẩy tay lộ liễu là chuyện không nên; giọng nói cũng cao hơn và có vẻ thôi thúc hơn. Nếu kích thích có nhiều hơn, em sẽ đứng dậy đi tới lui trong phòng, lầm thầm một mình; khi tình trạng kéo dài và không ai để ý sự khó chịu của em, thiếu niên có thể đánh người chung quanh. Sự hung hăng này chỉ xẩy ra như là phản ứng tệ nhất khi không có ai giúp, và tự em thì không biết cách đối phó hữu hiệu.
● Xác định tình trạng dễ gây ra vấn đề. Xem xét những tính chất của tình trạng làm thiếu niên bị kích thích quá độ, thí dụ mức độ ồn, mùi, đám đông nhộn nhịp ra sao, cũng như những đòi hỏi mà em phải giải quyết, như đòi hỏi về mặt giao tế phải biết đối đáp hoặc về mặt tri thức phải biết suy nghĩ trừu tượng. Chuyện khác phải quan tâm là hành vi của người khác trong khung cảnh, như họ nói mau hay nói chậm, nói êm dịu hay lớn tiếng; thiếu niên đôi khi có phản ứng với người này mà không phải là người kia chỉ vì mùi nước hoa của họ; và rồi ta cũng cần ghi nhận vấn đề thường xẩy ra khi nào.
● Xác định những cách mà thiếu niên đang dùng để giải quyết tình trạng. Cách ấy có hiệu quả chăng, có thích hợp với lề thói xã hội ? thí dụ trẻ nhỏ tuổi có thể xử sự một cách nhưng nay thiếu niên vẫn dùng cách ấy thì trông lạ lùng.
● Xác định những cách có thể thay đổi khung cảnh để làm giảm sự kích thích. Một vài thay đổi dễ làm như đổi chỗ ngồi trong lớp, cho em ngồi ở cuối lớp điện toán để không ai thấy em đánh máy chậm và do đó giảm bớt áp lực. Chuyện khác có thể làm là đề nghị với trường cho em dùng bàn đánh máy để viết bài thay vì viết tay, nếu em gặp khó khăn với cách sau khi chép bài trên bảng vào tập. Khi em không thể làm như các bạn là nghe giảng, quyết định điểm nào quan trọng và ghi lại rồi nghe giảng tiếp, một cách để giúp là trình bầy để thầy cô cho em bài soạn sẵn không phải chép. Khi thầy cô thuận lòng, họ thấy rằng học trò chú ý tới bài giảng nhiều hơn vì em không bị lúng túng làm những việc nói ở trên.
● Dạy cho thiếu niên cách nhận biết cảm giác và hành vi của mình, và cách đối phó thích hợp, hữu hiệu.
Phương thức tốt nhất là đặt ra những qui tắc mà thiếu niên có thể áp dụng trong một số trường hợp, vì quan sát thấy là người tự kỷ đáp ứng thuận lợi với quy củ, khi biết có luật để theo thì thường là họ làm theo luật. Khi em thấy tim hồi hộp, miệng khô, thở mạnh thì biết đó là dấu hiệu em bị căng thẳng, em có thể áp dụng cách được dạy là thở hơi sâu, làm giãn bắp thịt cho tới khi thấy cơ thể dịu lại. Cách khác là dùng óc tưởng tượng, tập trung tư tưởng, và để khuyến dụ thiếu niên làm thì chính thầy cô nên thực hành làm gương và khuyến khích cả lớp áp dụng.
● Hệ Tiền Đình
Ít cảm nhận:
- Khuyến khích sinh hoạt giúp em phát triển hệ tiền đình như cỡi ngựa gỗ, đu,
Nhậy cảm:
- Chia sinh hoạt thành từng phần nhỏ, dùng hình gợi ý như đường ghi mức đến, hình nhắc nhở.
● Cảm Quan về Tư Thế.
Ít cảm nhận:
- Đặt bàn ghế quanh những cạnh trong phòng để làm việc đi lại dễ hơn
- Dán băng keo mầu trên sàn để ấn định ranh giới
- Dùng luật là khoảng cách bằng cánh tay để giúp em biết đứng xa người khác bao nhiêu thì vừa.
● Xúc Giác.
Ít cảm nhận:
- Mền nặng
- Túi ngủ
Nhậy cảm:
- Báo cho con hay là bạn sắp sờ chạm em; luôn luôn đi tới trước mặt em (cho em thấy để tránh bất ngờ)
- Xin nhớ việc ôm chầm có nghĩa thân ái đối với bạn nhưng có thể làm em đau đớn, và không làm em thoải mái
- Chỉ cho em tự mình hoàn tất sinh hoạt, cho phép em điều chỉnh mức nhậy cảm của mình (như chải đầu, đánh răng)
● Thị Giác
Ít cảm nhận:
- Có thêm hình để nhắc
Nhậy cảm:
- Bớt bóng đèn huỳnh quang mà thay bằng bóng đèn mầu
- Cho đeo kính râm
-Treo màn cửa ngăn bớt kích thích thị giác
● Thính Giác
Ít cảm nhận:
- Dùng hình để hỗ trợ chỉ dẫn bằng lời
Nhậy cảm:
- Đóng cửa lớn và cửa sổ để làm giảm bớt tiếng động bên ngoài mà em bị kích thích
- Chuẩn bị con trước khi đi tới chỗ ồn ào hay nơi đông đảo
- Nút bịt tai
- Máy nghe như iPod
● Khứu Giác
Ít cảm nhận:
- Dùng vật có mùi nồng làm phần thưởng và làm phân tâm em, để tránh những kích thích khác không hợp về mùi nồng như vọc phân
Nhậy cảm:
- Dùng xà phòng giặt hoặc xà phòng gội đầu không mùi, tránh không dùng nước hoa, làm cho môi trường càng có ít mùi hoặc không có mùi càng tốt.
● Cử Động
Người tự kỷ mà bị khuyết tật nặng có thể gặp trục trặc về việc cử động, điều khiển tay chân theo ý; họ không khiến được những phần của cơ thể làm việc họ muốn làm cho dù biết phải làm như thế nào, trí óc ra lệnh mà tay chân không cử động, tựa như bị tê liệt. Yếu kém về cảm quan cho ra ấn tượng sai lạc về khả năng và mức thông minh của một người, gây thêm trở ngại cho việc thiếu niên tự kỷ muốn hòa nhập vào xã hội. Cảm quan ảnh hưởng cử động tinh tế lẫn cử động tổng quát và ý thức về cơ thể của mình trong không gian, chi phối cách ta di chuyển như khi ý thức là đang lên hay xuống cầu thang thì bước chân ta khác với bước chân đi trên mặt đất. Lấy thí dụ chuyện giản dị là ngồi xuống hoặc đi xung quanh bàn đòi hỏi phải biết cách xếp đặt
việc cử động có thứ tự, mạch lạc mà người tự kỷ nhiều khi không biết làm. Chép bài từ trên bảng vào tập, hoặc ghi notes trong vở, điền vào chỗ trống trên giấy là những việc họ làm lâu hơn người khác, làm không khéo bằng, và không phản ảnh mức hiểu biết thực sự của họ về đề tài.
Một số người tự kỷ bị tật là khó cử động, theo nghĩa họ biết phải làm gì mà không điều khiển được tay chân làm theo ý muốn, nếu gặp trường hợp này bạn cần dạy con cách làm kỹ năng cho đến khi thành thạo. Phương pháp là đặt tay bạn lên tay con hướng dẫn động tác, nó không khác gì cách bạn dạy con cầm viết viết những chữ đầu tiên trong đời. Khi đó tay bạn chồng lên tay con, dạy con cách nắm cây viết ra sao, cách di chuyển cây viết trên giấy, đè xuống, nhấc lên thế nào thì phương pháp này cũng tương tự vậy.
Thí dụ đưa ra là có thiếu niên biết dùng lò vi ba (microwave oven), biết mở cửa lò,
đặt tô đĩa vào và đóng cửa lại, mà không thể nào bấm giờ cho chạy máy. Cha mẹ khám
phá là con hiểu phải làm gì nhưng không thể điều khiển bắp thịt làm theo ý mình. Đây
cũng là điều hay thấy nơi một số bệnh nhân bị nghẽn mạch máu não (stroke) và hóa tê
liệt, họ ra lệnh trong não mà tay chân không cử động. Cuối cùng, nhiều người cử động
được tay chân trở lại vì chuyên viên thể chất trị liệu dùng tay tập chân tay bệnh nhân
tới lui một động tác nhiều lần, sau đó bệnh nhân tự tập lấy. Có vẻ như khi được tập cử
động thì bắp thịt có ký ức từ từ, tập nhiều lần thì ký ức mạnh dần, khi mạnh tới mức
nào đó thì bắp thịt nhớ động tác và có thể làm theo ý người bệnh.
Dựa theo lý thuyết này mẹ mới bỏ ra vài tiếng đồng hồ dạy con, đặt tay mình lên tay con làm đi làm lại động tác cho thuần thục rồi để con tự làm một mình, lâu lâu cho con nghỉ vài phút chơi như ghép hình, đọc sách, xong trở lại tập tiếp. Kết quả là sau hai giờ tập cử động, thiếu niên có thể tự mình bấm giờ cho chạy lò vi ba không cần ai trợ giúp. Nói thêm một chút về điều này thì có trẻ sinh ra không biết cử động, cha mẹ phải dạy cho con đủ mọi việc bình thường không cần dạy, như lật, bò, dang tay ra khi bị đẩy để không té. Họ áp dụng phương pháp nói ở đây tập cho con những gì cần tập, đặt tay mình lên tay con làm cử động. Chuyện về sau em có định bệnh tự kỷ làm củng cố thêm giả thuyết cho rằng chứng tự kỷ là do não bộ bất toàn.
Cách khác được đề nghị là cho con xem video cách làm công chuyện, bạn có thể tự làm lấy băng hình với máy quay video ở nhà mà không cần phải là chuyên gia. Thiếu niên xem video có người thân hay chính em làm mẫu không chừng học mau lẹ hơn, khung cảnh quen thuộc trong video cũng là điểm khác giúp em học được dễ dàng. Bạn có thể làm video vui nhộn như làm hề, ca hát, dùng bất cứ cách nào cho con nhớ và phát triển kỹ năng, sống độc lập là được. Đối với trẻ có khuyết tật nặng, hoặc trẻ thích học bằng hình thì video rất thuận tiện.
Thiếu niên tự kỷ xem ra vụng về và khó mà chơi thể thao trong đội như đội túc cầu, đội bóng rổ. Họ kể như sau:
Daniel rất sợ mỗi khi trường tổ chức tranh tài thể thao, những lúc đó đám đông chen lấn chật chội, trời nóng nực, tiếng cười nói reo hò ồn ào náo động Daniel chịu không nổi. Nếu bị chấn động mạnh quá anh sẽ đỏ bừng mặt, lấy tay đập đầu cho tới lúc đau hết sức; anh nói rằng mình bị căng thẳng trong lòng quá đỗi và phải làm gì đó, bất cứ chuyện gì để xả căng thẳng ấy ra. Một cách cha mẹ dạy con đối phó là tập nhẩy dây, làm vậy mang lại nhiều điều lợi là nó vừa cải thiện kỹ năng điều hợp chân tay, vừa khuyến khích anh chơi ngoài sân nhiều hơn vì Daniel thường rúc trong phòng. Khi biết nhẩy dây thành thạo rồi anh nhẩy một lúc lâu, thấy thoải mái hơn và bình tĩnh lại; anh
vừa nhẩy vừa đếm, mường tượng trong đầu con số và tính chất của nó theo óc tưởng tượng của mình.
Thầy cô có nhận xét sai lạc về Daniel vì không hiểu được các tật của anh. Chẳng hạn trong lớp Mộc anh tỏ ra chậm chạp không theo kịp chúng bạn, thầy tưởng anh lười nhưng anh viết đó chỉ vì cảm thấy lạc lõng trong môi trường và không muốn ở trong đó. Giờ thể thao cũng vậy, anh thích chơi môn nào không có tương tác, tức không chơi theo nhóm. Thí dụ như túc cầu thì Daniel bảo mình không hề biết khi nào phải chạy, phải giao banh cho người khác và khi nào phải nhường. Trong trận đấu khi tới lúc sôi nổi có quá nhiều tiếng ồn thì anh tự động ngưng lại trong trí mà không ý thức, do đó không biết chuyện gì xẩy ra chung quanh nên không nhận banh, đá banh hay giao banh đúng cách; kết quả là huấn luyện viên và bạn đồng đội sẽ bực dọc trách mắng Daniel. (Xin đọc thêm bài Chữ, Số và Mầu trên trang web của nhóm Tương Trợ).
Với người khác, quan sát thấy rằng họ mất nhiều thì giờ hơn trong việc thay quần áo trước lúc tập thể thao, điều này chỉ tạo thêm căng thẳng, bối rối. Tuổi thiếu niên là tuổi muốn hòa nhập với bầy, với chúng bạn, có y phục, đầu tóc, cử chỉ đúng điệu như mọi người; vì vậy bất cứ sự vụng về tay chân nào cũng có thể gây lo ngại, bất an cho em và khiến hành vi hóa tệ hơn.
Cảm quan ảnh hưởng tới hành vi nên có thể gây hiểu lầm, do đó cha mẹ nên hợp tác với trường, xin được thông báo về hành vi của con và giải thích nếu cần để con không bị bất lợi. Trường có thể cho là thiếu niên khó tánh, không vâng lời khi la hét và không làm theo yêu cầu của thầy cô. Tuy nhiên sau khi tìm hiểu bạn có thể giải thích là con bị kích thích quá nhiều vào giờ ăn trưa với mùi, tiếng ồn, sự đụng chạm khi học sinh chen lấn nhau ở hành lang. Em chịu không nổi do đó la hét; phản ứng của thiếu niên là có lý do mà không phải vì em hư. Bạn cũng có thể đề nghị cách giải quyết là cho em ngồi ăn trong lớp nếu được, hoặc tới một phòng trống trong trường.
Thiếu niên có thể từ chối không chịu vào một phòng nào đó ở trường như phòng thí nghiệm khoa học, phòng vẽ, phòng vẽ kiểu họa đồ. Nó có thể do mùi nồng trong phòng như mùi hóa chất, sơn hoặc thức ăn xào nấu trong đó. Nếu được thì xin với thầy cô xếp cho con ngồi gần cửa ra vào hoặc cửa sổ.
Khi khác, thầy cô có thể than phiền là đã học nhiều giờ cơ năng trị liệu, lớp chỉnh ngôn mà hành vi em không cải thiện, không có tiến bộ. Rất có thể con có vấn đề về cảm quan làm hành vi bị ảnh hưởng, và cha mẹ cùng nhà trường cần hợp tác để tìm cách giúp thiếu niên.
● Vệ Sinh và Sức Khỏe.
Hai đề tài này cũng cần được nhấn mạnh vì có liên hệ mật thiết với cảm quan như các thí dụ ở trên cho thấy, sạch sẽ là một yếu tố đóng góp vào lòng tin vào giá trị của mình và sức khỏe nói chung. Đa số thiếu niên tự kỷ không tự mình học những điều cần biết về vệ sinh và việc tự lo thân; chuyện lý tưởng là các em được dạy điều này trước khi tới tuổi dậy thì, nếu không được vậy thì bạn nên nhớ làm ngay lúc nào có thể được. Mục đích là dạy con càng độc lập chừng nào càng tốt chừng ấy về hai mặt này, dạy con kỹ năng lo thân về mặt vệ sinh cũng là dạy em về sự kín đáo và trách nhiệm. Cho nhiều thiếu niên có khuyết tật nặng và tiếp thu chậm thì đây sẽ là mục tiêu quan trọng nhắm tới cả đời, cha mẹ cần dạy luôn luôn, theo dõi nhắc nhở mới mong em học được thói quen tốt; khi bạn không bỏ cuộc mà kiên trì cùng năm tháng, thành công sẽ đến dù có lâu hơn một chút.
Để dạy con thì bạn nên chia công việc làm từng bước nhỏ, đặt ra thông lệ cho con theo; sau đây là thí dụ để dạy những kỹ năng căn bản về việc tự lo thân, có thể hữu ích cho con bạn.
– Lập một thời biểu.
Đặt bảng thời biểu ở nơi liên quan để nhắc nhở con, thí dụ trong nhà tắm hay phòng ngủ có gắn thời biểu đi tắm, thay quần áo sạch, đánh răng, chải đầu, dọn dẹp phòng. Thời biểu có thể là chữ viết mà cũng có thể là hình, tùy theo con bạn thích cách nào hơn. Cách nào hợp cho thiếu niên thì dùng cách đó mà đừng câu nệ, với em nào không biết đọc thì hình có thể là hình chụp, hình vẽ, hay biểu tượng. Hình là cách nhắc nhở rất tiện lợi chuyện phải làm trong thời biểu. Em nào không biết nói thì hình cũng là cách liên lạc hữu ích một khi được giải thích chúng có nghĩa gì.
– Quan sát vài lần cách em làm một việc và nương theo đó chia việc thành nhiều bước nối tiếp nhau cần để hoàn thành, tập con theo những bước này và khi làm quen rồi viết thành bảng cho con theo, hoặc làm bảng hình; ghi ra bước nào cần nhắc và bước nào con tự làm một mình. Đây sẽ là căn bản cho bạn dựa theo để dạy những kỹ năng khác, dần dần bạn sẽ khám phá ra khuôn mẫu thích hợp cho con, hợp với khả năng và tính khí của thiếu niên.
Ở đây ta nhắc lại cách dạy ngược ghi trong những sách tự kỷ đã do nhóm Tương Trợ xuất bản, đó là nếu cần dạy những bước của một việc thì hãy bắt đầu bằng bước cuối cùng, và khi em thành thạo hãy thêm vào đó bước trước nó, cứ như vậy đi ngược dần lại bước đầu tiên. Lý do dạy ngược, đi trở lui cách thức làm là để thiếu niên luôn luôn kết thúc là làm xong việc tức thành công, em cảm thấy đáng công mà cũng học được sự quan trọng của việc hoàn thành công chuyện. Thí dụ khi rửa tay việc lau khô tay là bước chót thì hãy bắt đầu với chuyện ấy; kế tiếp thêm vào đó chuyện trước nữa là tắt vòi nước. Khi em làm được việc này thì tới bước rửa tay trong nước, và cứ như thế tiếp tục.
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Cảm ơn những nhận xét đóng góp chân tình