Tổng Quát
I. MỤC ĐÍCH của TRUNG HỌC
II. LÊN TRUNG HỌC
Chọn Chương Trình Học Cho Con
Chuẩn Bị Đổi Trường
Vài Điều Cần Biết
III. VẤN ĐỀ với TRƯỜNG HỌC
Vấn Đề về Cảm Quan
Hành Vi Trục Trặc
Bắt Nạt
IV. CHUẨN BỊ cho TƯƠNG LAI
Thời Gian Chuyển Tiếp sau Trung Học
Tiến Thân Bằng Chữ Nghĩa
Tổng Quát
Cha mẹ có thể gặp một số khó khăn trong lúc con ở bậc trung học, nhưng khi bạn chịu xoay sở, tìm cách giải quyết, học những kỹ năng mới để đối phó thì nhiều phần là bạn thành công. Thí dụ cha mẹ kể rằng nhà trường có thể không nhận ra khả năng của thiếu niên mà bỏ cuộc, cho rằng em không thể học / không chịu học; thế nhưng khi cha mẹ gắng công chỉ dạy thì thầy cô ngạc nhiên với thành quả đạt được. Nó muốn nói sự đóng góp của cha mẹ rất quan trọng để làm con phát triển, bạn cần là người hợp tác tích cực với trường hơn là thụ động giao hết trách nhiệm cho thầy cô.
Trung học là nơi không phải chỉ để học hỏi sách vở, mà còn là cơ hội huấn luyện cho đời sống của người trưởng thành ngoài xã hội sau khi học xong. Muốn cho con thành công thì trường và cha mẹ nên thảo luận xem em cần học điều gì cho bây giờ và cho mai sau; tới năm cuối trung học thì có việc chuyển tiếp từ trường ra đời, vì vậy có việc chuẩn bị cho sự chuyển tiếp này. Thiếu niên bình thường ngoài việc học chữ còn học thêm kỹ năng giao tiếp, sửa soạn y phục, diện mạo nhờ trò chuyện thường ngày với bạn bè; mặt khác điều gì học ở nhà thì em biết tổng quát hóa và áp dụng ở trường, ngoài phố hay ngược lại. Trong khi đó thiếu niên tự kỷ không được khéo léo như vậy, em không tự nhiên học được cách xử thế khi giao tiếp với bạn cùng lứa, mà cũng không biết tổng quát hóa một cách tự nhiên từ môi trường này sang môi trường khác; điều gì cũng phải dạy cho em và dạy nhiều lần. Đối với em có Asperger hoặc khả năng
cao thì có những cách thức để giúp em về các mặt này như ghi rải rác trong sách, với em có khả năng yếu hơn thì cách thức có thể thay đổi cho thích hợp.
Một điểm quan trọng khác là khi con bước vào tuổi thiếu niên rồi tới tuổi trưởng thành, cha mẹ cần nhớ là em nên càng lúc càng đóng góp ý kiến vào việc chuẩn bị để trưởng thành. Giống như thiếu niên bình thường ngày càng được cho tự do làm theo ý mình nhiều hơn, ta cần nhớ cho con khuyết tật được cơ hội như thế, nhất là em nào có khuyết tật nặng. Hãy xem chắc là con được có chọn lựa và cho thiếu niên cơ hội suy nghĩ về tương lai, để chuẩn bị em cho cuộc sống của người lớn.
I. MỤC ĐÍCH của TRUNG HỌC.
Cha mẹ mong đợi gì ở trung học cho con ? Cho thiếu niên bình thường, ngoài việc học để mở mang kiến thức, trang bị cho em có hiểu biết để bước vào xã hội trong tương lai, những năm ở trung học còn huấn luyện cho em được thành công trong đời qua việc luyện các đặc tính như có tinh thần trách nhiệm, cách đối xử với người khác, biết dùng lý trí (common sense), có tinh thần độc lập. Điều này tự nhiên xẩy ra cho các em vì chúng học từ những người xung quanh, có thầy cô chỉ dẫn; với trẻ tự kỷ thì chuyện không diễn ra dễ dàng như vậy mà điều gì cũng phải dạy hoặc giải thích ở mức độ của em, không phải chỉ một lần mà sẽ là vô số lần.
Với đích nhắm là sự thành công mai sau của con, chuyên gia tâm lý ghi ra năm điều kiện cần thiết dẫn tới thành công ấy, và đi kèm với chúng là những đề nghị cha mẹ có thể làm để giúp con từng mặt riêng rẽ.
● Trách nhiệm cá nhân.
Cha mẹ có thể tập cho con ở nhà bằng cách cho thiếu niên càng lúc càng có nhiều trách nhiệm hơn về chính bản thân em, phòng riêng, công việc trong nhà, thí dụ đem rác ra, phơi quần áo, lấy quần áo khô vào xếp lại v.v.; dạy con biết tự chủ và chế ngự hành vi như khi cảm thấy sắp bị kích thích quá độ, sắp mất bình tĩnh thì biết làm gì, có thể làm gì. Đây là một phần quan trọng trong việc học có trách nhiệm riêng. Khi đi trường thì đó là biết đường tới lớp của từng môn, nhận biết các mốc điểm trong khuôn viên trường, làm theo thời khóa biểu, sinh hoạt hằng tuần hay hằng tháng. Bạn có thể giúp con xếp đặt các môn học khác nhau, bài tập phải nộp, bằng cách dùng nhãn mầu đủ loại cho dễ phân biệt. Khi khác thì cha mẹ để con học khôn bằng lỗi lầm của mình, thí dụ mẹ có thể làm sẵn thức ăn trưa nhưng để cho con tự xếp đặt lấy. Có hôm con quên mang theo thì mẹ để y vậy không mang đến trường cho con, cô giải thích rằng thiếu niên sẽ đói bụng hôm ấy nhưng em sẽ học tính chu đáo hơn nhờ kinh nghiệm đó. Những kỹ năng này giúp cho em ở trường, sinh hoạt hằng ngày ở nhà mà cũng hữu ích cho công việc tương lai của em.
● Có sáng kiến và tự quyết định.
Đây là hai đặc tính quan trọng bất kể khả năng của cá nhân cao hay thấp ra sao. Trường và gia đình cần xem sao cho em học được tính quý chuộng chính mình, biết xếp đặt, có cơ hội hành động mang lại hệ quả và học từ những kinh nghiệm này. Khả
năng tự quyết định sẽ dẫn tới việc tự biện hộ cho mình và điều sau cần được phát triển trong tuổi thiếu niên. Áp dụng cho thiếu niên có chứng tự kỷ thì dù có khuyết tật nhiều hay ít, em đều cần học về cách tự biện hộ cho mình bởi rồi sẽ tới lúc em không còn sống chung với ba mẹ, hoặc ba mẹ qua đời không thể bảo bọc con được nữa và em sẽ phải tự bảo vệ mình. Điều quan trọng là tất cả học sinh được chỉ dẫn về những điều này trong tuổi thiếu niên nếu trước đó chưa biết; mà muốn cho một người có thể biện hộ cho nhu cầu của mình thì phải có ý thức về điểm mạnh và điểm yếu của bản thân, cũng như mình khác với đa số người ra sao. Tùy theo khả năng của con mà bạn có thể giúp con có ý thức đó, thí dụ trẻ nào quen dùng hình thì làm bảng vẽ ra mục tiêu của con và những gì cần phải làm để đạt tới mục tiêu có thể có ích, hoặc viết chữ ghi điều gì cần làm hoặc không nên làm; thêm vào đó cũng ghi các ưu điểm của con.
● Biết giao tiếp.
Điều này rất khó cho người có chứng tự kỷ, với em nào có ít khả năng thì ta có thể dạy phép xã giao tối thiểu nhất để có thể tương tác khi đi làm hoặc trò chuyện xã giao. Ai có khả năng hơn thì cần học cách giao tiếp phức tạp hơn để có thể tìm việc hợp với óc thông minh của mình, hoặc có thể theo đuổi việc học ở bậc cao hơn. Nhiều tác giả ghi lại chỗ làm việc khó khăn đối với người tự kỷ chỉ vì không biết các luật giao tiếp, thí dụ như hiểu nghĩa thật (tức ẩn nghĩa thay vì nghĩa đen) của câu nói, diễn giải được ý nghĩa của điệu bộ (nhún vai, khoát tay nóng nẩy), sự thay đổi trên nét mặt (nhướng mắt, nhăn trán). Dầu vậy gia đình và trường vẫn có thể giúp thiếu niên phát triển về mặt này bằng cách xem xét kỹ năng nào cần dạy, kỹ năng nào cần tăng cường, rồi lập chương trình và kiên trì dạy em năm này tháng nọ.
Cần có chương trình vì nó cho phép bạn nhìn được trọn việc phải làm, mục tiêu nhắm tới; chương trình còn chia việc thành những phần nhỏ làm bạn thấy chuyện không nằm ngoài tầm tay của mình mà có thể đạt được, và khi thành công một điểm bạn sẽ có thêm hứng khởi để tiếp tục điểm kế cho đến cuối.
II. LÊN TRUNG HỌC
1. Chọn Chương Trình Học Cho Con.
Cha mẹ nên biết rằng khi con tới tuổi thiếu niên thì trường có khuynh hướng xếp học sinh theo những chương trình khác nhau tùy khả năng học tập của em. Nếu con có khả năng thấp bạn cần quyết định rõ là muốn điều gì cho con:
- Học trường đặc biệt, hay
- Học trường bình thường trong lớp đặc biệt, với vài môn học trong lớp bình thường với bạn bình thường.
Hãy hỏi về những dịch vụ có thể có ở trung học như chỉnh ngôn (speech therapy) và cơ năng trị liệu (occupational therapy) và xem con có còn hội đủ tiêu chuẩn để hưởng các dịch vụ này. Xem chắc là nếu trường quyết định ngưng không có những dịch vụ như trên thì phải có lý do đúng đắn, mà không phải là vì 'lên trung học em không cần trị liệu này nữa'. Bạn nên nhớ kỹ là cha mẹ không bao giờ có thể ngưng biện hộ cho con có sự giáo dục, dịch vụ và hỗ trợ mà em cần, bởi chuyện đơn giản là người khuyết tật học cả đời, luôn luôn tiếp tục học. Não bộ của chúng ta không ngừng tăng trưởng và
tiếp thu thông tin, ai cũng có khả năng ấy và khoa học nhìn nhận tính mềm dẻo dễ uốn nắn ấy của não (neuroplasticity). Do đó chớ tin rằng ta không thể dạy một ai ở bất cứ lứa tuổi nào vì ta có thể làm chuyện đó. Lẽ tự nhiên ta dễ học hơn lúc nhỏ nhưng ta vẫn có thể học được khi lớn hơn, và điều này áp dụng cho con của bạn.
2. Chuẩn Bị Đổi Trường.
Chuyển trường là thời điểm quan trọng cho bất cứ trẻ nào, và cho riêng trẻ tự kỷ thì nó đặc biệt khó khăn. Việc hết sức quan trọng cho thầy cô và gia đình là dùng những cách trợ giúp hữu hiệu để làm giảm mức căng thẳng cho trẻ, và giải quyết nhu cầu học hỏi của em. Ta nên ghi lại trong hồ sơ của em cách nào thành công trong quá khứ để khi sang trường mới nó được áp dụng. Những điểm chính yếu sau cho việc chuyển trường được nhân viên nhà trường ghi nhận, và họ cũng như cha mẹ công nhận là chúng có hiệu quả trong việc chuyển tiếp; chúng thích hợp cho trẻ mẫu giáo cũng như cho học sinh lớp 12 nhưng có thể cần được sửa đổi cho hợp với sở thích, khả năng giao tiếp và cảm quan của em:
- Thông lệ có qui củ
- Sẵn sàng để có thay đổi trong thông lệ.
- Hỗ trợ bằng hình
Thêm vào đó nhân viên nói rằng chương trình tập kỹ năng giao tiếp và liên lạc giữa trường với nhà là điều hết sức quan trọng. Người ta ghi nhận là việc tiếp tục áp dụng ít nhất ba trong số các phương pháp dưới đây cho ra thành công trong việc đổi trường. Sau đây là giải thích về từng cách, cũng như đưa ra vài đề nghị thực tiễn cho việc áp dụng trong lớp học.
● Thông lệ có qui củ.
Thông lệ giúp trẻ tự kỷ hiểu thế giới chung quanh em. Một bảng ghi thông lệ (như thời khóa biểu) có thể được soạn cho học sinh biết những việc làm hằng ngày; nó nên có sinh hoạt mỗi ngày, thầy cô phụ trách và trình tự của sinh hoạt. Bảng thông lệ là cách cụ thể cho trẻ thấy hoạt động trong ngày và giúp trẻ dự đoán được các việc làm là một cách quan trọng để cho em làm chủ được cuộc sống, giảm thiểu bực bội. Bảng khuyến khích em có sự độc lập vì học sinh biết cách tự mình đi sang sinh hoạt kế, nó có thể gồm ít hay nhiều chi tiết tùy theo cần thiết ra sao và gồm có:
- Ai làm gì ?
- Họ làm ở đâu ?
- Họ làm khi nào ?
Bảng có thể dùng cho:
- Một thông lệ
- Một buổi học
- Một buổi sáng
- Trọn một ngày
- Trọn một tuần
Khi mới dạy học sinh dùng bảng, hãy bắt đầu với khoảng thời gian ngắn; khi nói về bảng hãy nhắc thứ tự công chuyện bằng công thức:
Đầu tiên là ..., rồi tới ... (First ... Then ...).
Thí dụ: Đầu tiên làm 10 bài toán, rồi tới đọc sách về xe lửa trong 5 phút.
Bảng cũng có thể cho chọn lựa các sinh hoạt. Điều quan trọng là đọc bảng ngay lúc bắt đầu một buổi học, và nhắc lại thông lệ nếu thấy học sinh tỏ ra lo lắng. Vài em có thể thấy khó mà làm xong thông lệ gồm nhiều bước, nếu vậy hãy viết chỉ dẫn để giúp em hoàn thành những công việc có nhiều bước. Bảng cũng có thể được dùng để giúp em hiểu ý niệm trừu tượng, thí dụ như hành vi thích hợp ở trường như:
- Lắng nghe người khác
- Chờ tới phiên mình
- Chơi một cách thân thiện
- Nói ôn tồn.
● Sẵn sàng để có thay đổi trong thông lệ.
Trường học là chỗ bận rộn và khi trẻ đã học xong thông lệ bình thường nào đó thì lại có thay đổi. Điều này có thể làm trẻ lo lắng. Nhân viên nhà trường có thể làm giảm sự căng thẳng bằng cách chuẩn bị học sinh cho thay đổi sắp có; điều này được thực hiện bằng cách dùng bảng thông lệ và đánh dấu chữ X mầu đỏ, cho biết có thay đổi và ghi chi tiết sinh hoạt mới. Thí dụ:
- Trời mưa, đi thư viện, không ra sân chơi.
● Hỗ trợ bằng hình.
Tại sao dùng hình ? Có quan sát ghi nhận là nhiều người tự kỷ có lợi khi được hỗ trợ bằng hình. Đa số người bình thường nghĩ trong đầu bằng chữ, nhưng cách ấy lạ lùng với người tự kỷ.
Tôi suy nghĩ hoàn toàn bằng hình, giống như cho chạy nhiều cuộn băng video trong óc tưởng tượng của tôi. (Temple Grandin).
Hỗ trợ bằng hình cho ra thành công với trẻ tự kỷ vì hình:
− Khuyến khích sự tương tác giữa bè bạn
− Tăng ý thức, khả năng tự lo thân và độc lập cho học sinh, cho biểu hiệu thấy được về chuyện tự lo thân và độc lập.
− Làm việc chơi chung được dễ dàng hơn.
Ở bậc trung học, thường thường học sinh học trường có đông người hơn, có nhiều thầy cô và lớp khác nhau cho mỗi môn học, điều này đòi hỏi em phải thích ứng với điều kiện học tập mới. Bất kể con bạn học trường đặc biệt hay trường bình thường, việc chuyển từ tiểu học sang trung học với trường ốc mới sẽ cho ra một số thay đổi, và sau đây là vài gợi ý giúp cho việc chuyển tiếp được dễ dàng hơn.
− Khi đã biết em đi trường trung học nào, hãy hỏi xem có những thay đổi, hỗ trợ nào bạn và trường cần làm cho con. Xem chắc là trường và thầy cô có những thông tin rõ ràng về thiếu niên như hành vi, tật về cảm quan nếu có, ngôn ngữ, kỹ năng giao tiếp, khả năng tự lo thân, các môn học giỏi hay kém ra sao.
− Có thể có buổi họp về sự chuyển trường với sự hiện diện của nhân viên cả hai trường và cha mẹ. Tại buổi họp này các hỗ trợ cho trẻ sẽ được thảo luận, cũng như giải pháp được đưa ra như có dàn xếp hay thay đổi để thích nghi với nhu cầu của em. Lấy thí dụ bạn có thể xin cho con học lớp có những bạn bè của em ở tiểu học, đó là những gương mặt em đã quen và điều này có ích cho thiếu niên. Nếu có thay đổi cho hợp với tình trạng của con thì bạn cần biết rõ đó là gì, và ai sẽ phụ trách việc ấy. Hãy nhớ lại điều gì giúp con học tốt đẹp ở tiểu học và dùng đó làm căn bản để thảo luận chuyện ở
trung học. Thí dụ cách con liên lạc là PECS, bảng hình, hoặc em nói được thì trường mới cần biết rõ những điều này; trong trường hợp em học lớp bình thường thì bạn cần biết rõ ai là người em có thể tiếp xúc nếu gặp khó khăn, cũng như chỗ nào em có thể vào để bình tĩnh lại khi cảm quan bị kích thích quá độ.
Lý do trường mới cần biết cách liên lạc quen thuộc của em, khả năng em mạnh / yếu ra sao là vì người tự kỷ khó mà chấp nhận thay đổi, trong khi lên trung học là thay đổi lớn cho thiếu niên; như thế tốt nhất là giữ y cách liên lạc bình thường, đừng tạo nhiều xáo trộn trong lúc này mà chờ khi em ổn định, quen với thầy cô và có bạn khi ấy hãy có thay đổi.
− Dẫn con đến thăm trường mới nhiều bận, đi lại cho quen đường đi từ nhà đến trường. Xin phép cho con vào thăm trường vài ngày trước lúc đi học còn vắng người, để biết trước phòng ốc, đâu là thư viện đâu là phòng ăn, toilet, chỉ cho biết đâu là phòng con sẽ học, những mốc dễ nhớ, cách đi từ lớp này sang lớp kia theo thời khóa biểu trong tuần. Có hình chụp những nơi này càng tốt hơn nữa, để bạn cùng con xem lại ở nhà, dán hình lên tờ giấy lớn và vẽ đường đi tới các nơi này cho con rõ.
Nếu ở gần thì ôn với con nhiều lần cho quen, giải thích cho em hay về niên học mới. Đây là sự chuẩn bị thong thả, cho em học cách tự mình biết đi lại trong trường, thông thạo các ngõ ngách lúc chưa có đám đông và cảnh ồn ào huyên náo; về phần cha mẹ thì bạn có cơ hội chỉ con từng chuyện một, có thì giờ không bị vội vã như về sau lúc bắt đầu đi học.
− Chuẩn bị sớm cho con, giảm bớt sự căng thẳng do khung cảnh xa lạ gây ta. Nếu được thì xin cho con gặp thầy cô mới, hoặc xin hình và tên của thầy cô mới sẽ dạy con và nhân viên mà con sẽ tiếp xúc. Mang hình về nhà ghi tên thầy cô ở cuối hình, cho con xem để quen mặt quen tên.
− Dùng lịch cho con đếm khi nào tới ngày đi học hay ngày dọn nhà. Trẻ thấy trước việc gì sắp xẩy ra sẽ bớt lo lắng, không bị dồn nén cảm xúc và không bị căng thẳng.
3. Vài Điều Cần Biết
Sau đây là đề nghị vài điều ở trung học mà thiếu niên tự kỷ cần thành thạo:
● Đi xe bus.
Theo cách này cha mẹ cần giải thích cho con rõ:
- Chỗ đợi xe bus
- Dùng thẻ đi xe bus hoặc có đúng số tiền để mua vé xe.
- Giờ xe đến
- Có đủ giờ để ra tới chỗ đón xe
- Đi gặp ai khi có vấn đề
- Làm gì nếu xe bus không tới
- Lúc đi xe về thì xuống chỗ nào
Học sinh cũng cần được giúp để đối phó với chuyện dọc đường trên xe bus, như tiếng ồn, chòng ghẹo v.v. Tốt hơn là đi thử xe một lần trước khi nhập học, rồi trong vài ngày đầu có người mà em biết đi cùng với em thì rất có ích.
● Bản đồ trường.
Nên cho em một bản đồ, có càng nhiều chi tiết càng hay, ghi số phòng và có mô tả. Em cần học để nhận biết những mốc điểm trong trường được dùng để mô tả địa điểm.
Thí dụ phòng A13 là phòng học giờ toán, ở đầu cầu thang gần thư viện. Dành thì giờ để đi quanh trường cũng là chuyện hay, cho em học biết những nơi quan trọng như toilet, thư viện, phòng ăn v.v.
● Thời biểu.
Đây là một trong những phần phức tạp nhất của sinh hoạt ở trung học mà thiếu niên phải làm quen, nhất là khi trường dùng thời biểu cho hai tuần thay vì một tuần. Ở tiểu học, học sinh chỉ có một thầy cô và thường là học trong một lớp mỗi ngày; lên trung học em có nhiều thầy cô và nhiều lớp thay đổi. Để giản dị hóa thời biểu, ta có thể dùng những cách sau:
- Dùng hình thay cho chữ, thí dụ môn Địa Lý thì có hình quả địa cầu
- Dùng mầu khác nhau cho mỗi môn học
- Viết trọn tên thầy cô
- Dùng mặt đồng hồ để chỉ giờ thay vì viết số hoặc viết Giờ 1 v.v.
- Ghi số phòng và có mô tả
- Cha mẹ nên có bảng thời biểu đặt ở nơi dễ thấy trong nhà.
● Tủ Cá Nhân (Locker)
Học sinh cần:
- Biết tủ ở đâu (cũng dùng mốc điểm để tìm).
- Hỏi xem trường có chìa khóa phụ, và phải làm gì khi không có chìa.
- Gài chìa khóa vào dây lưng quần, hay vào ví có tiền ăn trưa.
● Sổ Ghi.
Sổ bài tập nên có dán bản đồ trường và một bảng thời biểu. Chương trình TEACCH đề nghị có chỉ dẫn giản dị và rõ ràng, thí dụ chỉ dẫn về 'Phải làm gì nếu em mất tiền mua thức ăn trưa ?' có thể giúp làm em bớt căng thẳng. Nếu học sinh rất bực dọc khi trời mưa lúc ra chơi, trong sổ có vài chỉ dẫn giản dị viết sẵn sẽ cho nhân viên trường biết phải làm gì để giúp em. Cũng nên dùng sổ này để thông báo cho cha mẹ và học sinh về chuyện gì sắp tới hoặc có thay đổi về thời biểu. Nếu có thể được thì người trợ giáo (teacher aide) trong lớp nên kiểm lại là chi tiết của bài cho về nhà được ghi đầy đủ, và nhân viên cũng nên ghi vào sổ khi có thư cho học sinh mang về nhà.
● Thêm Trách Nhiệm.
Ở trung học, học sinh có trách nhiệm hoàn toàn về túi bút, sách vở, dụng cụ của em v.v., vì vậy dùng bảng kiểm kê có thể rất hữu ích, bảng có thể ghi trong sổ bài tập. Có học sinh không sắp xếp được sách vở, dụng cụ, tủ cá nhân, và kết cục là đi học mà không có đủ học cụ và sách, hoặc khệ nệ mang tới lui cả chồng sách. Khi có vấn đề này thì nên cất sách trong một hộc ở nhà, và mỗi tối cha mẹ có thể giúp con soạn ra sách nào cần cho ngày mai.
● Ăn trưa và Ra chơi.
Học sinh cần biết:
- Đi đâu / cách xếp hàng / ngồi ở đâu
- Có những nhóm nào họp trong giờ ăn
- Phải đi đâu để có giúp đỡ.
- Giờ ra chơi và ăn trưa có thể là vấn đề vì không có qui củ, có tiếng ồn và người ta di chuyển luôn. Trường có thể giao việc cho em làm, nhưng điều quan trọng là công việc không nên cho cảm tưởng đó là phạt, thí dụ như lượm rác. Bắt nạt cũng là vấn đề, và nhiều học sinh thấy dùng phòng yên lặng làm chỗ nghỉ ngơi là chuyện có lợi. Ta cần phân biệt giữ môi trường có qui củ và môi trường có kiểm soát vì người ta thường lẫn lộn hai cái, nhất là khi học sinh có hành vi trục trặc. Khi đó nói về môi trường 'qui củ' là có nghĩa môi trường có kiểm soát chặt chẽ với những luật được theo sát. Ngược lại, trẻ AS cần môi trường qui củ, hàm ý có trật tự mà không phải có kiểm soát.
III. VẤN ĐỀ với TRƯỜNG HỌC.
Một cuộc thăm dò gần đây thấy rằng gần phân nửa phụ huynh có con tự kỷ nói họ gặp trục trặc với hệ thống giáo dục. Cha mẹ cho là thầy cô lớp bình thường mà có trẻ tự kỷ hay Asperger học chung, không biết cách hướng dẫn em, một phần vì họ không được huấn luyện và phần khác là họ không hiểu biết về bệnh. Trường cần thông cảm với sự khó khăn mà cha mẹ trẻ tự kỷ gặp phải, đổi lại cha mẹ cũng cần nhớ là thầy cô phải gắng sức rất nhiều để giúp trẻ tự kỷ hội nhập vào lớp bình thường. Cách tốt nhất để hai bên hiểu nhau là gặp gỡ, trao đổi ý kiến để đánh tan ngộ nhận, bên này hiểu bên kia nghĩ sao và chữa lại hiểu lầm. Cha mẹ cũng nên chuẩn bị là sẽ gặp những cha mẹ khác không muốn có trẻ tự kỷ trong lớp của con họ, vì thầy cô phải bỏ nhiều thì giờ lo cho trẻ tự kỷ và không thể chú ý đến học sinh khác; hoặc họ không muốn con chơi với trẻ tự kỷ để con không bắt chước tật của trẻ, vì trẻ tự kỷ không 'bình thường'.
Vậy chuyện bạn có thể làm là khiến trường, thầy cô, học sinh trong lớp ý thức về tình trạng của con; hãy giúp thầy cô bằng cách soạn một hay hai trang giấy về những đặc điểm cần chú ý của con, tật hay gặp cùng cách đối phó ở nhà, cho họ biết vài điều như:
− Trẻ tự kỷ yếu kém về mặt giao tế, không có kỹ năng tương tác, không hiểu qui luật xã giao và không biết mình phải theo những qui luật đó.
− Thầy cô cần nói chỉ dẫn rõ ràng, kiểm lại là em hiểu nó và biết mình phải làm gì. Nên bắt đầu bằng tên em, nếu không em có thể không biết là thầy cô đang nói với mình. Kế đó thầy cô có thể nghĩ là điểm chính của bài học thật hiển nhiên, dầu vậy không chừng trẻ lại chú tâm vào một điều khác hẳn.
− Trẻ tự kỷ hay thích chuyện gì quen thuộc và không muốn đổi sang chuyện xa lạ em chưa biết.
− Buổi họp toàn trường có thể gây khó khăn cho trẻ tự kỷ, vì có đông người trong phòng họp, khung cảnh ồn ào; nếu được thì xin cho con ngồi ở bìa cho thoải mái hơn, thay vì giữa hàng ghế, và nếu có bạn ngồi cạnh để trông chừng thì càng tốt. Dùng máy tính giờ (timer) để giúp em có ý niệm về thời gian, giải thích buổi họp sẽ kéo dài bao lâu.
− Quan sát thấy rằng giờ ra chơi gây nhiều khó khăn cho trẻ tự kỷ vì nó không có thứ tự, khuôn khổ trong khi trẻ rất cần trật tự, sắp xếp rõ ràng. Khi em không biết chắc
phải làm gì, em có thể có hành vi không thích hợp hoặc tách xa bạn bè và bị cô lập. Để tránh chuyện này bạn có thể khuyến khích con gia nhập một nhóm họp lúc ra chơi, thí dụ nhóm chơi cờ (chess), nhóm điện toán v.v. ; hỏi xem con có thể ngồi trong thư viện; nếu con thích ngồi một mình thì tìm xem trường có chỗ thích hợp cho em. Nếu con muốn dự trò chơi với các bạn mà không biết cách, hãy dạy con vài câu mở lời sao cho bạn không nghĩ là em mát dây, ngớ ngẩn.
− Giờ ăn trưa là thời điểm khó khăn nữa và em cần có phương thức đối phó để giảm bớt căng thẳng. Bạn có thể cho nhân viên phòng ăn biết về đặc điểm của con và xếp đặt sẵn cho trẻ.
− Khi đưa con tới trường, tìm cách thả con xuống cùng một chỗ mỗi ngày, và khi đón thì cũng nên xếp đặt để đón y chỗ mỗi buổi. Có sẵn nước uống và món ăn chơi khi tới đón sau giờ học, giúp con xả hơi; và khi về nhà thì có chỗ dành riêng cho con xả căng thẳng.
− Chót hết, ngày nào có trục trặc làm trẻ bối rối, lo lắng như mất đồ chơi quen thuộc, áo ưa thích chưa giặt và không được mặc hôm nay thí dụ vậy, bạn cần cho thầy cô biết ngay từ đầu để hiểu và nhân nhượng với thay đổi về hành vi ở lớp. Không được báo trước thì thầy cô ngỡ ngàng với sự đổi tánh, và ai nấy đều bực bội không vui, cả lớp cũng như con bạn.
● Vấn Đề về Cảm Quan.
Đa số học sinh tự kỷ bị trục trặc về cảm quan, muốn cho em thành công ở trường thì điều quan hệ là học sinh không cảm thấy bị rối loạn nhiều về cảm quan, và bậc trung học là lúc thiếu niên cần bắt đầu học cách nhận biết khi nào mình bị ảnh hưởng do các tật về cảm quan, như cảm thấy khó chịu, bối rối, nóng nẩy. Các em có thể học cách diễn đạt để báo động cho người chung quanh hay là em phải rời khung cảnh làm em bất an, hoặc học cách phản ứng thích hợp. Đó có thể rất giản dị như là tấm thẻ em đưa cho thầy cô ghi lý do em muốn rời lớp và nhờ giúp đỡ, việc có thể tỏ ý cho người khác hay về vấn đề mà cảm quan gây ra là bước đầu tiên dẫn đến việc học cách đối phó với chúng.
Chuyên viên về cơ năng trị liệu (occupational therapist) được huấn luyện về hòa hợp cảm quan, và có kinh nghiệm với những vấn đề của tuổi thiếu niên, môi trường của bậc trung học sẽ có thể chỉ dạy học sinh những sinh hoạt hữu ích về cảm quan, giúp cho em không bị xáo trộn quá đáng. Vấn đề có thể liên hệ đến ánh sáng, âm thanh, mùi hương v.v. nên cha mẹ cần chú ý để xác định rồi hoặc tự giải quyết, hoặc trình bầy với trường để gia đình và trường hợp tác đối phó. Một thí dụ của sự hợp tác là cho em ngồi nơi thuận tiện trong lớp không bị nắng chói, đèn thay bóng để ánh sáng không làm em nhức mắt và đau đầu nếu đó là vấn đề; về phần gia đình thì cha mẹ có thể cho con luyện thính giác để quen với các loại âm thanh khác nhau, giúp cho em không còn gặp khó khăn với một số âm thanh trong môi trường hằng ngày. Tại những nước tây phương cha mẹ có thể liên lạc với hội về chứng tự kỷ để xin chi tiết nơi trị liệu bằng âm thanh. Nói chung thì ta cần tìm sự quân bình giữa việc làm giảm sự nhậy cảm nơi người tự kỷ và việc tập thích ứng với khung cảnh họ sinh sống. Sau đây là vài thí dụ:
○ Nếu có âm thanh gây cho em khó chịu thì bạn có thể cho em dùng nút bịt tai (earplug), nó hữu ích trong việc giảm sự nhậy cảm với âm thanh; điều lưu tâm là đặt nút bịt tai sao cho em vẫn nghe được người khác nói chuyện với em để không làm ngơ khi thầy cô gọi và em cần trả lời, hoặc nghe tiếng chuông reo đổi giờ học. Khi cần tập trung tư tưởng làm bài em có thể được phép đeo headphone nghe nhạc vặn nhỏ, cách này có sự hữu ích của nó nhưng không nên kéo dài, vì mục tiêu nhắm tới là tập làm giảm sự nhậy cảm và ta chỉ đạt tới điều ấy khi ở trong môi trường có tiếng ồn mà không phải nhờ xa lánh nó. Mặt khác, thiếu niên cần quen với tiếng động trong cuộc sống hàng ngày thay vì cô lập mình, bởi đó là thực tế và ta thay đổi mình cho quen thì dễ hơn là đòi hỏi khung cảnh thay đổi cho hợp ý ta.
○ Đối với ánh sáng, nếu bị chói mắt em có thể xin phép được mang kính mầu trong lớp; khi khác thì đội mũ có vành de ra sẽ giúp chặn ánh sáng nhấp nháy của đèn huỳnh quang. Cha mẹ nên cẩn thận trong việc trị liệu về sự nhậy cảm của mắt. Thị giác là cảm quan hết sức mỏng manh lẫn vô giá, cần được bảo vệ rất kỹ để tránh rủi ro có hại; nó có nghĩa khi muốn có trị liệu về thị giác cha mẹ cần biết phương pháp có căn bản khoa học ra sao, hỏi xem sách vở hay tài liệu nào hỗ trợ cho trị liệu, yêu cầu được đọc các bài này và xem chắc là có ai đã được chữa thành công hay có cải thiện đáng kể nhờ trị liệu. Bạn cần phải có chứng cớ rõ ràng trước khi đóng tiền cho con chữa bệnh, để tránh việc tiền mất tật mang hoặc tệ hơn nữa là mắt bị ảnh hưởng do trị liệu sai lầm.
○ Sang xúc giác nếu thiếu niên bị khó chịu khi có đụng chạm thì những ai chung quanh em hằng ngày cần biết là em không muốn bị đụng chạm. Người tự kỷ có khi thích có cảm giác về áp lực sâu, nếu con bạn ưa thích như vậy thì một giải pháp là cho em đeo túi đeo lưng nặng, túi đeo vai, hoặc may túi lót bên trong áo len, áo khoác có chứa vật nặng để tạo áp lực. Em khác có thể muốn lúc nào cũng có cảm giác nhai, bạn hãy dặn con luôn luôn mang kẹo cao su trong túi.
○ Em nào nhậy cảm về mùi thì cho em mang khăn tay có tẩm mùi ưa thích để em có thể ngửi mùi này, khi khung cảnh có những mùi khác làm em thấy ngộp. Với em không biết nói thì vấn đề có thể trở nên trầm trọng, nhưng may mắn là cách giải quyết lại rất giản dị, chỉ cần bạn tinh ý một chút; thí dụ có em đang ngoan nay bỗng trở chứng la hét. Người ta truy được nguyên nhân là tật bắt đầu có khi cô giáo thay đổi nước hoa, học sinh không chịu được mùi của nước hoa mới nên đâm ra náo động trong lớp, việc học hóa ra chậm lại.
● Hành Vi Trục Trặc.
Như đã có trình bầy trong các sách về tự kỷ, hành vi là một hình thức liên lạc tỏ ý, và có thể có nhiều lý do khác nhau cho cùng một hành vi mà do nhiều người làm. Ở trường, khi hành vi của thiếu niên trở thành mối quan tâm lớn thì học sinh có thể được thẩm định, để tìm nguyên do, hệ quả và cách đối phó. Nó xét tới những gì xẩy ra trước khi có hành vi, hành vi thực sự và hệ quả của hành vi. Dụng ý của việc thẩm định là để có hiểu biết rõ hơn về hành vi và các yếu tố chi phối nó; chuyên viên giỏi dang khi phân tích hành vi có thể ấn định rõ ràng những lực gì nằm sau và thúc đẩy nó. Xin đọc thêm chương bốn về cách giải quyết một số hành vi.
● Bắt Nạt.
Đây là vấn đề lớn cho cha mẹ, chẳng những việc bắt nạt xẩy ra tại nhiều trường mà người tự kỷ và Asperger còn là nạn nhân tuyệt hảo. Bắt nạt diễn ra dưới nhiều hình thức, bằng lời nói trêu chọc, khiêu khích cho đến việc dùng vũ lực; bởi nó sinh ra ảnh hưởng nặng nề cho nạn nhân, trường và cha mẹ cần hợp lực ngăn ngừa và có biện pháp đối phó. Người tự kỷ dễ bị bắt nạt vì không thể suy ra ý người khác dựa vào thái độ và hành vi dễ đoán; có khi thiếu niên bị nhắm tới mà khi khác thì em ngay tình vướng vào hoàn cảnh không an toàn và vào lúc này, bắt nạt có thể diễn ra ở trường lẫn trên internet và điện thoại di động.
Em bị tấn công còn do cách xử sự, điệu bộ khác người, không hòa với chúng bạn. Trong khi những học sinh khác muốn tỏ ra độc lập bằng cách phá luật nào có thể phá ở trường thì thiếu niên tự kỷ răm rắm tuân theo luật, và có thể phản đối lớn tiếng trong lớp khi có ai phá luật, do đó em không được các bạn ưa chuộng. Lý do khác làm em bị ăn hiếp còn là vì giọng nói, y phục, đầu tóc của học sinh gây hiểu lầm cho người khác. Người tự kỷ thường có giọng đơn điệu không thay đổi, không biết ăn nói cho hợp với người đối diện (nói với bạn bè cùng tuổi hoặc thầy cô đều cùng một cách thức) nên ai tiếp xúc dễ có cảm tưởng sai lạc là em thô lỗ, trịch thượng, chế nhạo họ.
Tật của chứng tự kỷ còn gây ấn tượng bất lợi cho thiếu niên, thí dụ em không nhìn vào mắt, giọng phẳng lì, đứng nhúc nhích không yên làm người khác tin là em có điều muốn che dấu, không thật lòng. Em không có ý niệm về tôn ti, kính nể người có thẩm quyền nên mạnh dạn sửa lỗi thầy cô, gây phật ý. Chuyện hóa tệ hơn cho trẻ Asperger nào giỏi ăn nói, em thao thao khiến mọi người tin rằng em hiểu biết nhiều, hiểu ý họ nên khó tha thứ khi em tỏ ra không hiểu nghĩa bóng, không cư xử theo luật bất thành văn trong lúc giao tiếp.
Ngoài việc gặp nhiều rủi ro hơn trẻ khác về chuyện bị bắt nạt, trẻ tự kỷ còn có thể không nói được cho bạn nghe chuyện gì xẩy tới cho em. Khi khác trẻ tự kỷ muốn được hòa vào nhóm và sẽ làm những gì mà kẻ bắt nạt đòi hỏi, thường khi đó là những việc có thể gây hại cho trẻ, hoặc làm em bị rắc rối với nhà trường, thí dụ em gái cởi y phục trong sân chơi. Trẻ tự kỷ còn là mục tiêu dễ nhắm trong sân trường vì các em hay chơi một mình, không có ai hỗ trợ chung quanh.
Cha mẹ cần cho con và trường hay rằng bắt nạt là điều không thể được khoan thứ, và dàn xếp với trường để có một nhân viên mà thiếu niên có thể tiếp xúc để được giúp đỡ, khi em cảm thấy không an toàn. Trong gia đình cha mẹ có thể dạy con có lòng tự tin, biết giá trị của mình; từ ý niệm này em sẽ cảm thấy bị xúc phạm khi có bắt nạt, và mạnh dạn phản đối hoặc kể lại chuyện cho thầy cô hay cha mẹ biết để mau lẹ đối phó. Tới đây bạn thấy việc dạy con biết tự biện hộ, lên tiếng bảo vệ quyền lợi của mình có ứng dụng tốt đẹp ra sao.
○ Bắt nạt là sao.
Bắt nạt được định nghĩa là:
- Cố ý gây tổn thương tình cảm hoặc thể chất,
- Sự việc tái đi tái lại trong một khoảng thời gian, và
- Nạn nhân khó mà bảo vệ mình với việc ấy.
Bắt nạt chia làm ba loại:
- Thể chất, như đánh, đá, lấy đi đồ vật.
- Lời nói như gọi tên bậy bạ, xúc phạm, phê bình chọc giận.
- Gián tiếp như tung lời đồn đãi, nói chuyện xấu về nạn nhân, tẩy chay không cho nhập vào nhóm bạn bè, gửi email hoặc gửi text có ác ý bằng điện thoại di động.
Ngoài việc bắt nạt trong trường, nay những cách liên lạc mới như internet và điện thoại di động cho phép kẻ bắt nạt trêu chọc người ta bằng những cách khác và ngoài giờ học. Nó có nghĩa sau khi tan trường, học sinh vẫn có thể bị chọc phá vào buổi tối và luôn cả cuối tuần. Bắt nạt lối mới gồm có việc gửi text bằng điện thoại di động, emails, chuyện gẫu trên internet (chat forums), các trang web. Kẻ bắt nạt có thể khuyến khích bạn cùng lớp gửi cho nhau những lời gây tổn thương cho một em nào. Cách khác là dùng điện thoại di động chụp hình, quay video người bị đánh hoặc bị chọc phá rồi gửi đi cho bạn bè xem.
Thường thường, 1/3 nạn nhân bị bắt nạt không hề cho ai hay. Trẻ có khuyết tật dễ bị bắt nạt gấp ba lần trẻ bình thường, mà một số em cũng dễ chính mình thành kẻ bắt nạt người khác. Chót hết, bắt nạt xảy ra ở trường bình thường lẫn trường đặc biệt.
○ Dấu hiệu.
Khó khăn cho cha mẹ là không dễ biết con mình bị bắt nạt hay không, nhất là khi trẻ không biết nói, hoặc không nghĩ mình bị bắt nạt để cho cha mẹ hay. Chẳng hạn có trẻ được bạn đổi hai đồng 25 xu để lấy đồng cắc một đồng. Hai đổi lấy một nhưng là 50 xu đổi được một đồng, và trẻ tự kỷ nghĩ mình có bạn tốt. Vậy bạn cần tìm những dấu hiệu khác để xem con có thể bị bắt nạt khi nghi ngờ. Chúng có thể là:
- Đi học về với quần áo dơ, rách hoặc mất y phục, túi đeo lưng, sách vở, tay chân trầy trụa, bầm,
- Không có tiền mà đáng lẽ em phải có, hoặc hỏi xin thêm tiền cho ngày mai.
- Tới trường hay về nhà trễ vì phải đổi đường tới trường hoặc về nhà.
- Tránh né không muốn đi học, nại cớ để nghỉ học.
- Tỏ ra bị căng thẳng, rầu rĩ, không vui hoặc không khoẻ.
- Sức chú ý bị giảm, hoặc thầy cô cho hay tiêu chuẩn bài làm của em xuống thấp hơn.
- Trẻ tự kỷ có thể có thay đổi đột ngột về hành vi do bị bắt nạt ở trường, như lo lắng nhiều hơn, bị khó ngủ nhiều hơn và nổi xung ở nhà. Em còn có thể bắt chước kẻ bắt nạt trong cách đối xử với anh chị em ở nhà, bắt nạt anh chị em vì không hiểu hành vi như vậy không chấp nhận được. Em chỉ nghĩ mình làm điều gì mà bạn bè đã làm.
○ Ảnh hưởng.
Ảnh hưởng lâu dài của việc bắt nạt có thể nghiêm trọng. Nghiên cứu nói là trẻ bị bắt nạt có thể thấy không an toàn trong một thời gian dài, có vấn đề với hành vi, lòng tự tin sút giảm, và sức chú ý kém. Em có thể không muốn giao tiếp vì sợ bị bắt nạt, cũng như có thể mắc bệnh liên quan đến việc bị căng thẳng. Một số về sau có thể mắc bệnh tâm thần. Ở nhà, cha mẹ có thể cần phải nuôi dưỡng lòng tự tin của con. Hãy khen những bài đặc biệt nào của con ở trường, cho con thấy là chứng tự kỷ làm con giỏi về mặt này hay kia. Kể chuyện những ai tự kỷ mà thành đạt như cô Temple Grandin.
Nếu con bạn là kẻ bắt nạt thì hãy nghĩ xem con làm vậy để muốn nói điều chi. Muốn được chú ý chăng ? Muốn được nhận vào nhóm chúng bạn ? Hoặc không biết là mình gây tổn thương cho người khác ? Có ai xúi giục em không ?
Tập kỹ năng giao tiếp cho em có thể là điều lợi, em có thể cần được chỉ cách mời bạn chơi với mình, hoặc dạy con làm chuyện khác nếu thấy bực bội. Chẳng hạn em không đánh người ta mà đi tìm ai tin cậy và đưa thẻ có viết trên đó cho họ xem để nhờ giúp, đây là cách áp dụng cho em nào không nói giỏi hoặc không biết nói, hoặc em có thể đá banh.
○ Cách Đối Phó.
− Tránh kẻ bắt nạt.
Hãy dạy con là khi không cảm thấy an toàn thì em nên tìm cách ở gần hoặc trong một nhóm học sinh khác, là bạn của em hay không. Cách khác là nhờ bạn của mình hoặc ai mà em tin cậy trông chừng em. Đừng tìm cách đánh trả, vì đánh nhau có thể làm em gặp rắc rối, hoặc em có thể bị thương. Khi gặp một hoặc nhiều kẻ bắt nạt và không thể tránh ngay thì em có cách là tìm một bạn hay người trong nhà để cùng tập cách trả lời câu chọc phá mà kẻ bắt nạt có thể nói với em. Thí du:
Kẻ bắt nạt: Giầy anh xấu quá.
Học sinh: Đó là anh nghĩ thôi. Giầy tôi thoải mái lắm.
Tập những câu này và viết ra giấy. Kẻ bắt nạt có thể nói những điều về hình dạng bề ngoài của em, gia đình hoặc những gì mà em thích làm. Em có thể viết
- Em nói như vầy khi người ta nói về hình dạng của em …
- Em nói như vầy khi người ta nói về gia đình em ...
Nếu em cảm thấy sợ hãi thì đó là chuyện tự nhiên. Ai cũng thấy sợ. Điều quan trọng là em được chỉ cách làm gì khi nghĩ là mình sợ và muốn tránh xa cảnh bị bắt nạt. Cha mẹ có thể dạy con nhận biết nét mặt và cử chỉ, ánh mắt của kẻ bắt nạt lẫn của em.
− Dạy con biết cách tìm sự giúp đỡ.
Nếu chuyện xẩy ra ngoài đường thì em có thể đến thư viện, trung tâm sinh hoạt cộng đồng, phòng chơi (leisure centre) hoặc những nơi khác mà cha mẹ có thể chỉ cho con, vì những nơi này thường có nhiều người trong đó, dù họ biết em hay không. Vào đó thì em không còn đơn độc và có thể nhờ người lớn trợ giúp.
− Đừng làm ngơ việc bị bắt nạt, vì chuyện tự nó sẽ không biến mất khi em không làm gì. Chuyện còn có thể hóa tệ hơn nếu em làm ngơ nó. Em không có lỗi gì khi bị bắt nạt, và không ai đáng phải bị đối xử như vậy. Hãy nói cho người khác biết, vì chuyện sẽ không chấm dứt khi không có ai khác hay. Nếu em không thể nói thì có thể viết ra giấy và đưa cho cha mẹ hoặc ai khác xem, như ông bà, thầy cô, nhân viên ở trường.
− Khi nhận được text qua điện thoại di động, hoặc email ác ý, hoặc điều gì viết về mình trên internet, em có thể vào trang web sau để học cách đối phó: cybermentors.org.uk. Còn khi dùng internet, em cần theo một số luật để được an toàn.
IV. CHUẨN BỊ cho TƯƠNG LAI.
Cha mẹ cần can dự vào việc chuẩn bị để bảo đảm là sẽ có chương trình chuyển tiếp hợp với nguyện vọng của con; về phần thiếu niên em cần nói lên mơ ước của mình, điều em ưa thích và giỏi dang lẫn điều không thích và yếu kém, và có cuộc hội ý tất cả những ai liên hệ đến việc chuẩn bị cho em ra đời sau trung học. Điều thiếu niên phải đối đầu là vừa phải học các điều cần biết của bậc trung học, mà cũng phải học những kỹ năng cần thiết cho tương lai, cho việc chuyển bước sang thế giới của người trưởng thành. Dù em sẽ vào đại học, đi làm, sống độc lập hay ở trong nhà tập thể, em cần chuẩn bị trong những năm trung học cho mọi hoàn cảnh của cuộc sống thường ngày. Trung học là lúc cho ta xem xét các hy vọng tương lai của em, và trang bị cho em khả năng để thực hiện chúng.
Ngày nay cha mẹ ý thức nhiều hơn về chứng tự kỷ, nên có khuynh hướng nỗ lực mạnh mẽ để giúp con sống đời tốt đẹp hơn, so với cuộc sống của người khuyết tật thuộc thế hệ trước. Trong lúc đó trường học không theo kịp cách suy nghĩ này, và không chuẩn bị cho đa số học sinh tự kỷ về việc ra đời sau trung học, bất kể là em chọn đường hướng nào là học lên cao, đi làm, ra riêng hoặc sống chung trong nhà tập thể. Cha mẹ và học sinh được cho biết rất ít chọn lựa về tương lai, có trường hợp không được cho biết tất cả những đường hướng em có thể chọn, và nhân viên hữu trách chỉ trình bầy điều gì hợp cho chính phủ, thay vì điều gì có lợi cho thiếu niên lẫn xã hội về lâu về dài.
Thí dụ thầy cô nói rằng em có khả năng học nghề ở trường TAFE (tại Úc) với ý là học xong thì em đi làm, nhưng họ không nói thêm là số người tự kỷ hay Asperger tìm được việc làm so ra rất thấp so với người bình thường (69% không có việc làm tại Hoa Kỳ, 85% tại Anh), dù người tự kỷ nói rằng họ làm việc giỏi dang và chăm chỉ. Khi học xong mà không có việc làm thì em sẽ ngồi nhà nhìn bốn bức tường 24 tiếng một ngày ư ? Đó là lý do cha mẹ cần biết nhiều thông tin, các thiếu sót của hệ thống trợ giúp người khuyết tật, và quyền lợi của con để trang bị khi nói chuyện với nhân viên chính phủ, nhà trường trong cuộc họp bàn chương trình học cho em. Điều quan trọng là cha mẹ và thiếu niên có cái nhìn thực tế, biết những gì sẽ gặp, thực trạng chờ đợi em khi học xong, có sáng kiến và nghĩ tới những điều gì có thể làm được cho em.
Một cách chuẩn bị cho việc đi làm khi học xong là em tập đi làm trong lúc ở bậc trung học, hoặc có lương hoặc làm thiện nguyện dựa theo điều em ưa thích. Nếu ưa thích thú vật em có thể xin làm trong cửa hàng bán thú cưng (pet) hoặc ngay cả sở thú, cho em nào có mơ ước học ngành thú y. Cha mẹ giúp được con bằng cách tìm chủ nhân nào cần tài năng đặc biệt cho thương nghiệp của họ, như cần người biết về thảo chương điện toán (programer), biết vẽ, trang trí, làm trang web v.v., tức những tài năng mà thiếu niên có. Đây cũng có thể là bước đầu cho thiếu niên tập loại công việc tự mình làm chủ, dẫn tới hành nghề tự do mai kia.
Để quảng cáo và trưng ra tài năng của mình thì thiếu niên có thể làm trang web trên internet, hoặc soạn một tập gồm những tài liệu mẫu (portfolio) cho chủ nhân xem. Thời gian ở trung học còn có thể được dùng để luyện kỹ năng cho thêm tinh xảo, giúp em tìm việc dễ dàng hơn. Điều hiển nhiên là muốn thành công trong công việc thì người ta nên chọn ngành thuộc khả năng của mình; mà như vậy cũng chưa đủ vì biết kềm chế sự lo lắng, làm chủ tính khí và có kỹ năng giao tiếp là những điều cần yếu ngang với kỹ năng.
● Thời Gian Chuyển Tiếp sau Trung Học.
Điều hiển nhiên là tùy theo khả năng của con mà bạn lập chương trình cho tương lai, nếu xét thấy con có thể theo đường học vấn thì đại học là đích nhắm, còn nếu có dự tính cho em đi làm thì nên nhìn vào sinh hoạt của cộng đồng để lấy ý. Thiếu niên cần tỏ ý về tương lai của mình; với người tự kỷ biết nói rành rọt thì em biết nói lên mình muốn gì cho tương lai; ai không biết nói thì cần cho em phương tiện để tỏ ý.
Về việc làm nếu không tìm ra điều gì như mong muốn thì có lẽ bạn cần phải hội ý với toán ở trường lo về chuyển tiếp cho học sinh. Lấy thí dụ cha mẹ nghĩ rằng phụ việc ở thư viện hợp với con nhưng thư việc không dự tính mướn nhân viên lúc này; thay vào đó khi được cha mẹ cho biết ý định, toán hỗ trợ của nhà trường đề nghị việc khác là cho thiếu niên tập việc ở nhà trẻ vì em tỏ ra thích trẻ nhỏ. Cha mẹ thuận theo và sau
một thời gian học việc rồi tập sự, nhà trẻ cho hay em làm được việc và họ rất sẵn lòng nhận em vào làm. Câu chuyện cho bài học là cha mẹ cần uyển chuyển, sẵn sàng đổi thái độ và niềm tin khi thấy làm vậy thuận tiện cho con.
Trường hợp khác thì có thể cha mẹ phải tìm tòi và tạo cơ hội cho con làm việc, khi không có sẵn cơ hội ấy ở chung quanh. Thí dụ đưa ra là có em lúc nhỏ thích tháo đồng hồ, máy móc rời ra hết và sau đó ráp lại dễ dàng. Cha mẹ nhận biết khả năng này nên lúc con trưởng thành, giúp con mở thương nghiệp nhỏ là lắp ráp và sửa xe đạp, như vậy khi cha mẹ xông xáo không quản khó nhọc thì con tự kỷ có khả năng thấp vẫn có thể sống đời ý nghĩa, có việc làm hợp với em. Chuyện quan trọng ở đây là chính cha mẹ phải tạo ra cơ hội mà không thể mong nhờ vào ai khác.
Đề nghị đưa ra là nếu bạn thấy có việc hợp với ước muốn và sở thích của con thì tìm hiểu xem thiếu niên cần có những kỹ năng chi, phải có hỗ trợ gì để thành công trong môi trường đó. Sự việc nhấn mạnh thêm điều ta đã nhắc tới đôi lần ở trên, là sự thành công của việc làm trong tương lai tùy thuộc vào việc phát triển khả năng và sở thích của em ở bậc trung học.
Giống như mọi ai khác, thiếu niên sẽ vui vẻ sung sướng khi làm điều mà em thích thú mà chắc chắn bạn muốn con sống hạnh phúc, vậy hãy xem có những cách nào giúp em tìm được việc làm ưa thích; hoặc hay hơn nữa bạn tạo cơ hội cho con có việc làm nếu không thấy có việc gì hợp với con. Thường thường với người tự kỷ khả năng thấp thì cha mẹ cần nỗ lực nhiều hơn để tìm việc cho con. Ngay cả khi ta chưa biết em sẽ làm được việc gì, ta vẫn phải dạy thiếu niên những kỹ năng cần thiết cho mọi nghề như biết xếp đặt, có óc tổ chức, ngăn nắp v.v. Khi không được cho cơ hội phát triển tài năng hoặc luyện tập để có kỹ năng cần thiết, có hỗ trợ đúng cách để thành công trong việc làm, đa số người tự kỷ hay Asperger khó có được việc làm và có việc nhưng không sử dụng được hết khả năng của mình.
Chót hết thì điều cần nhớ ở đây là đối xử với con tự kỷ của bạn y như là với con bình thường về mặt tìm việc, có nghĩa:
○ Quan tâm đến tài năng, năng khiếu, mơ ước của thiếu niên.
Em thích làm điều gì, em làm điều gì giỏi ? Người biết nói thì có thể cho cha mẹ, thày cô hay còn với ai không thể diễn tả ý nghĩ rõ ràng hoặc là không biết nói thì cha mẹ cần quan sát kỹ hơn, và hỏi thăm ý kiến của thầy cô, những ai tiếp xúc với thiếu niên và biết rõ về em như bạn bè.
○ Tìm người làm gương cho con noi theo. Thiếu niên bình thường có những gương thành công ngoài đời khiến em ngưỡng mộ thì thiếu niên tự kỷ cũng có những người cho em bắt chước; có nhiều sách do người tự kỷ viết, ghi lại kinh nghiệm làm việc của họ, bạn nên tìm đọc để có thông tin thực dụng, biết họ đã chuẩn bị ra sao và công việc đòi hỏi chuyện chi, cùng điều gì hữu ích trong việc chuẩn bị đi làm. Sau đây là vài điểm nêu ra trong các sách này:
− Nhiều người bình thường không thích việc làm của mình nhưng họ làm vì lợi nhuận, tức động cơ thúc đẩy là lợi nhuận. Với người tự kỷ thì lợi nhuận có khi không phải là động cơ mạnh gợi hứng cho họ, và bởi họ cần phải thích loại công việc mà họ
làm vậy thì chuyện đặc biệt quan trọng là tìm loại công việc thích hợp cho chính cá nhân.
− Ghi một bảng những điều ưa thích và không thích, ưu điểm và điểm yếu cũng như là điều gì quan trọng cho họ trong môi trường làm việc, thí dụ có ít tiếng ồn, không có ánh sáng chói. Các chi tiết này có thể hữu ích khi xem xét những việc họ có thể làm hoặc thích hợp cho họ. Các câu hỏi nên đặt ra là: Tôi được độc lập tới mức nào ? Nếu tôi cần giúp đỡ thì có được trợ giúp không ? Tôi phải làm bao lâu thì được nghỉ xả hơi ?
− Người tự kỷ đóng góp gì được cho thương nghiệp. Nếu muốn giúp con tìm việc thì bạn phải biết tâm lý của chủ nhân, trình bầy lợi ích của việc mướn người tự kỷ mới mong họ xét đơn thuận lợi.
− Kỹ năng giao tiếp. Cho dù kỹ năng này không quan trọng để làm được việc, nhưng nó lại quan trọng để người ta giữ được việc lâu dài vì có nhận xét rằng việc làm không phải chỉ là việc làm, mà còn là đối xử với người khác. Chỗ làm khác nhau có thể đòi hỏi kỹ năng giao tiếp khác nhau, nhưng nói chung có một số kỹ năng căn bản mà mỗi ai đi làm, là nhân viên đều nên biết. Thí dụ ai cũng phải tìm hiểu để biết người nào giúp được mình và cách hỏi xin trợ giúp, tức không phải mỗi năm phút là gọi họ hoặc muốn hỏi lúc họ đang nhận điện thoại.
− Chỉ dẫn cho bạn cùng chỗ làm. Đôi khi những bạn cùng làm với người tự kỷ cần
được cho biết vài điều về họ để hiểu những tật của người này và thích nghi với chúng. Thí dụ nói 'Ảnh cần 30 giây để trả lời vì suy nghĩ chậm, xếp đặt tư tưởng không được mau lẹ' sẽ khiến người chung quanh thông cảm và tỏ ra kiên nhẫn hơn.
Sự hợp tác của người chung quanh rất cần cho sự thành công của người tự kỷ, kinh nghiệm nói rằng nếu ta có thể dạy được kỹ năng thì dạy họ. Nếu không thể dạy thì thích nghi nó với khung cảnh, tìm cách khác để làm. Và nếu không tìm ra cách khác thay thế thì dạy người chung quanh cách đối phó.
− Tự làm chủ. Ngoài ba cách làm việc chính nêu ra trong quiển Tự Kỷ và Trị Liệu cho người khuyết tật nói chung, một cách khác nữa là hành nghề tự do hay tự làm chủ mà ai có khả năng nhiều hay ít đều cũng có thể làm được. Thường thường đó là việc làm dựa trên năng khiếu khéo léo, kỹ xảo riêng biệt của một người; họ có thể tự mình làm được hết việc mà cũng có khi chỉ làm được một phần nào, và phải giao phần họ không thể làm cho người khác hoàn tất.
Cách dàn xếp này cho cá nhân cơ hội làm điều mà họ thích làm, không bị gò bó trong hệ thống hay khuôn khổ, hoặc bị giới hạn vì môi trường không có sẵn hoạt động thích hợp cho họ, và nó cũng cho họ nhiều kiểm soát hơn về khung cảnh chung quanh.
● Tiến Thân Bằng Chữ Nghĩa.
Nhiều người tự kỷ khả năng cao thành đạt bằng đường học vấn, một số theo đuổi môn mà họ ham mê như toán, điện toán, nhạc. Bởi có nhiều ngành học, điều quan trọng ở đây cũng giống như trên là tìm ngành hợp với sở thích và khả năng của người tự kỷ. Sách vở cho ra một số nhận xét đáng nói, mô tả sự khác biệt giữa bậc trung học và đại học như khác biệt giữa chuyện đi phi cơ thương mại và tự mình lái phi cơ riêng. Ở
trung học, học sinh được cha mẹ và cộng đồng chung quanh hỗ trợ với cha mẹ là người cầm lái vận mạng cho em; khi vào đại học thì người tự kỷ phải điều khiển phi cơ của mình. Những khác biệt được kê ra là:
○ Ở bậc trung học, trọn cộng đồng nhận biết em. Thầy cô quen với của thiếu niên, quen biết gia đình và ngay cả anh chị em của em theo học cùng trường trước hay sau em vài năm; họ biết học sinh thuộc về khu trong vùng. Ngược lại trên đại học, giáo sư và nhân viên không biết gia đình em là ai, từ đâu tới, và có đông sinh viên đông giáo sư hơn; đại học thường rộng lớn hơn trung học.
○ Thời khóa biểu trên đại học khác với trung học, sự thay đổi có thể khó cho người tự kỷ nhất là khi sinh viên rời nhà ra thành phố trọ học hoặc ở trong ký túc xá. Họ sẽ có bạn cùng phòng và cần có kỹ năng tự lo thân để sống độc lập. Sinh viên còn phải có thể sinh hoạt theo thời biểu trong tuần, hoặc nửa năm học. Chẳng những kỹ năng giao tiếp cần thiết để việc sống chung diễn ra suông sẻ, mà nó cũng rất thiết yếu khi nói chuyện với văn phòng, giáo sư. Nhân viên đại học và giáo sư có thể không quen thuộc với chứng tự kỷ và thấy lạ lùng với cách ăn nói của họ; người tự kỷ có thể không diễn tả được hết ý mình hoặc làm người khác hiểu được nhu cầu của mình, và hệ quả là không được trợ giúp như ý hoặc đạt được điều mong muốn.
Về điểm này, trường đại học và trường TAFE tại Úc có những dịch vụ hỗ trợ rất hữu ích cho người khuyết tật mà cha mẹ và người tự kỷ nên biết để sử dụng. Mặc dầu vậy, vẫn có những người không biết đến nhu cầu đặc biệt của sinh viên, thế nên dưới đây là những gợi ý để giúp việc học được dễ dàng hơn:
○ Đưa ra thông tin về chứng tự kỷ cho những ai mà sinh viên cần phải tiếp xúc, cho biết cách nó ảnh hưởng sinh viên, khó khăn mà anh phải đương đầu và cách thức nào có thể giúp anh. Đây là lúc mà kỹ năng tự biện hộ sẽ giúp ích cho chính sinh viên, và không nên ngần ngại cho biết rằng mình có chứng tự kỷ để được giúp đỡ.
○ Cách thức đã dùng ở trung học cũng dùng lại được ở đại học, như viết ra thời biểu, ghi ra bảng điều cần nhớ hoặc cần làm, dùng hình, biểu đồ, video đều có ích. Đây là kỹ năng cho cả đời mà không phải chỉ cho một giai đoạn, vì thế nó đáng công cho bạn dành thì giờ dạy con.
Ta sẽ đề cập chi tiết những điều này trong chương tám.
Sự hợp tác của người chung quanh rất cần cho sự thành công của người tự kỷ, kinh nghiệm nói rằng nếu ta có thể dạy được kỹ năng thì dạy họ. Nếu không thể dạy thì thích nghi nó với khung cảnh, tìm cách khác để làm. Và nếu không tìm ra cách khác thay thế thì dạy người chung quanh cách đối phó.
− Tự làm chủ. Ngoài ba cách làm việc chính nêu ra trong quiển Tự Kỷ và Trị Liệu cho người khuyết tật nói chung, một cách khác nữa là hành nghề tự do hay tự làm chủ mà ai có khả năng nhiều hay ít đều cũng có thể làm được. Thường thường đó là việc làm dựa trên năng khiếu khéo léo, kỹ xảo riêng biệt của một người; họ có thể tự mình làm được hết việc mà cũng có khi chỉ làm được một phần nào, và phải giao phần họ không thể làm cho người khác hoàn tất.
Cách dàn xếp này cho cá nhân cơ hội làm điều mà họ thích làm, không bị gò bó trong hệ thống hay khuôn khổ, hoặc bị giới hạn vì môi trường không có sẵn hoạt động thích hợp cho họ, và nó cũng cho họ nhiều kiểm soát hơn về khung cảnh chung quanh.
● Tiến Thân Bằng Chữ Nghĩa.
Nhiều người tự kỷ khả năng cao thành đạt bằng đường học vấn, một số theo đuổi môn mà họ ham mê như toán, điện toán, nhạc. Bởi có nhiều ngành học, điều quan trọng ở đây cũng giống như trên là tìm ngành hợp với sở thích và khả năng của người tự kỷ. Sách vở cho ra một số nhận xét đáng nói, mô tả sự khác biệt giữa bậc trung học và đại học như khác biệt giữa chuyện đi phi cơ thương mại và tự mình lái phi cơ riêng. Ở
trung học, học sinh được cha mẹ và cộng đồng chung quanh hỗ trợ với cha mẹ là người cầm lái vận mạng cho em; khi vào đại học thì người tự kỷ phải điều khiển phi cơ của mình. Những khác biệt được kê ra là:
○ Ở bậc trung học, trọn cộng đồng nhận biết em. Thầy cô quen với của thiếu niên, quen biết gia đình và ngay cả anh chị em của em theo học cùng trường trước hay sau em vài năm; họ biết học sinh thuộc về khu trong vùng. Ngược lại trên đại học, giáo sư và nhân viên không biết gia đình em là ai, từ đâu tới, và có đông sinh viên đông giáo sư hơn; đại học thường rộng lớn hơn trung học.
○ Thời khóa biểu trên đại học khác với trung học, sự thay đổi có thể khó cho người tự kỷ nhất là khi sinh viên rời nhà ra thành phố trọ học hoặc ở trong ký túc xá. Họ sẽ có bạn cùng phòng và cần có kỹ năng tự lo thân để sống độc lập. Sinh viên còn phải có thể sinh hoạt theo thời biểu trong tuần, hoặc nửa năm học. Chẳng những kỹ năng giao tiếp cần thiết để việc sống chung diễn ra suông sẻ, mà nó cũng rất thiết yếu khi nói chuyện với văn phòng, giáo sư. Nhân viên đại học và giáo sư có thể không quen thuộc với chứng tự kỷ và thấy lạ lùng với cách ăn nói của họ; người tự kỷ có thể không diễn tả được hết ý mình hoặc làm người khác hiểu được nhu cầu của mình, và hệ quả là không được trợ giúp như ý hoặc đạt được điều mong muốn.
Về điểm này, trường đại học và trường TAFE tại Úc có những dịch vụ hỗ trợ rất hữu ích cho người khuyết tật mà cha mẹ và người tự kỷ nên biết để sử dụng. Mặc dầu vậy, vẫn có những người không biết đến nhu cầu đặc biệt của sinh viên, thế nên dưới đây là những gợi ý để giúp việc học được dễ dàng hơn:
○ Đưa ra thông tin về chứng tự kỷ cho những ai mà sinh viên cần phải tiếp xúc, cho biết cách nó ảnh hưởng sinh viên, khó khăn mà anh phải đương đầu và cách thức nào có thể giúp anh. Đây là lúc mà kỹ năng tự biện hộ sẽ giúp ích cho chính sinh viên, và không nên ngần ngại cho biết rằng mình có chứng tự kỷ để được giúp đỡ.
○ Cách thức đã dùng ở trung học cũng dùng lại được ở đại học, như viết ra thời biểu, ghi ra bảng điều cần nhớ hoặc cần làm, dùng hình, biểu đồ, video đều có ích. Đây là kỹ năng cho cả đời mà không phải chỉ cho một giai đoạn, vì thế nó đáng công cho bạn dành thì giờ dạy con.
Ta sẽ đề cập chi tiết những điều này trong chương tám.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Cảm ơn những nhận xét đóng góp chân tình