Chương Ba: Giao Tiếp


Tổng Quát
I. DẠY ĐIỀU CHI
Liên Lạc Tỏ ý
Cách Giao Tiếp
Giúp Phát Triển Kỹ Năng Trò Chuyện
Dạy Khi Nào
II. NHỮNG YẾU TỐ KHÁC
III. TÌNH BẠN
Kết Bạn
Tạo Cơ Hội
Duy Trì Tình Bạn

Tổng Quát
Chúng ta dùng nhiều loại kỹ năng giao tiếp mỗi lần tương tác với ai, còn khi trẻ tự kỷ hay thiếu niên chơi một mình thì không bị đòi hỏi phải có kỹ năng giao tiếp, và đó là lý do nhiều người tự kỷ thích chơi riêng rẽ; chuyện không phức tạp khi chơi một mình và em không phạm lỗi lầm vì không cần theo luật chơi của người khác. Kỹ năng giao tiếp nói về những loại sau:
– Kỹ năng trò chuyện: chào hỏi, dự vào cuộc đối thoại, thay phiên nhau nói, lắng nghe, nói về một đề tài riêng biệt, ý thức khoảng cách cá nhân, biết mở đầu và chấm dứt câu chuyện.
– Kỹ năng chơi: biết quan sát cuộc chơi, nhập cuộc, thay phiên chơi, chia sẻ, nhân nhượng, giải quyết tranh chấp, biết cách xử sự khi bị từ chối, bị thua; chơi tương tác, biết chấm dứt cuộc chơi v.v.
– Hiểu các cảm xúc: biết nhìn nét mặt, điệu bộ thân hình, giọng nói và suy ra cảm xúc của người khác; có chữ để diễn tả nhiều cảm xúc khác nhau; biết đối phó với sự tức giận; biết tự chỉnh để giảm bớt sự lo lắng, căng thẳng.
– Kết bạn: biết tạo và duy trì tình bạn, đối phó được với áp lực của bạn đồng tuổi.
Nói chung những kỹ năng trên phát triển sớm nơi trẻ bình thường và diễn ra theo năm tháng khi trẻ lớn dần, nhiều khi không có chỉ dẫn. Trẻ thăm dò môi trường chung
quanh, làm thử khi đúng khi sai để giải quyết vấn đề; chúng quan sát những trẻ khác, bắt chước bạn và tìm cách dự vào trò chơi. Nếu làm trật thì lấy kinh nghiệm và rồi chơi tiếp, nhờ đó kỹ năng được trau luyện dần khi em lớn và cùng lúc em đi theo khuynh hướng của xã hội. Tuy nhiên thiếu niên tự kỷ xem ra không phát triển kỹ năng giao tiếp theo cùng cách thức như trẻ bình thường, vì vậy bạn cần giải thích khung cảnh giao tiếp cho con rõ, dùng chữ và ý niệm hợp với trình độ phát triển của con.
Có thể chia trẻ tự kỷ thành bốn loại chính, mỗi loại có những khó khăn riêng về mặt giao tiếp:
– Trẻ dửng dưng, làm như em xa lánh và thờ ơ với người khác; khi bực tức thì khó mà làm cho nguôi.
– Trẻ thụ động, không tự ý khơi chuyện với ai nhưng chịu tương tác khi người khác mở đầu.
– Trẻ tích cực mà khác đời, tự ý bắt chuyện với trẻ khác nhưng theo cách lạ lùng, không thích hợp. Em cũng không chú ý mấy đến câu trả lời của những ai mà em tới khơi chuyện.
– Thiếu niên trịnh trọng đúng bài bản, ăn nói cứng ngắc, hết sức lịch sự, dùng ngôn ngữ đúng phép tắc, có thể theo sát luật trong khi tương tác mà không biết linh động.
Có thể là trẻ phát triển qua những loại này, em nào dửng dưng có thể học được kỹ năng tương tác khi lớn, nhưng vẫn còn tính thờ ơ và khác đời một chút khi so với chúng bạn cùng tuổi. Nhiều yếu tố hợp lại khiến người tự kỷ không bắt được các dấu hiệu không lời, bỏ qua cơ hội thực tập các kỹ năng này, thí dụ như tật không nhìn vào mắt, không hiểu nghĩa bóng. Để giúp con thì cha mẹ cần giải thích những kỹ năng, tình cảnh và thực tập với con, để em có thể lãnh hội theo mức của mình, hiểu được ý nghĩa của chúng.
Dù có trí thông minh bình thường, người tự kỷ vẫn có thể không hiểu được việc giao dịch, tương tác, thấy hoang mang rối rắm. Họ nói:
- Nó làm như ai nấy chơi một trò phức tạp và tôi là người duy nhất không được cho biết về luật chơi.
Lời giải thích của cha mẹ sẽ làm thiếu niên tự tin hơn khi tiếp xúc ngoài xã hội. Cho dù trẻ không muốn giao tiếp với ai và thích ở một mình, tập có kỹ năng tương tác là điều hữu ích vì nó sẽ giúp em biết xử sự đúng cách ở nơi đông người và không tránh được, như trong các buổi hội họp cuối năm ở trường hoặc họp mặt gia đình.
I. DẠY ĐIỀU CHI.
Điều quan trọng là ta bắt đầu ở mức hiện thời của con, thay vì ở mức mà ta muốn con có hoặc ở mức của bạn bè cùng tuổi; bởi dạy trẻ cách đối phó với sự giận dữ không có lợi gì nếu con không hiểu ý nghĩa của những biểu lộ khác nhau trên mặt; cũng như không thể dạy điều ấy nếu trẻ khó mà ngồi yên, chịu nhìn vào mặt người khác và chú ý. Cha mẹ thường hiểu rõ con mình hơn ai hết, tuy nhiên bạn cũng nên nói chuyện với nhà trường hay chuyên viên nào làm việc với con, để xem có vấn đề gì về việc giao tiếp ở trường hay bất cứ vấn đề nào đáng quan tâm. Ta cần nhớ là trẻ có thể có những khó
khăn hay tật chỉ lộ ra ở trường mà không có ở nhà và ngược lại, vì đây là hai môi trường khác nhau cho ra hai tâm lý và hành vi khác nhau.
Một trong những khó khăn lớn nhất cho trẻ tự kỷ là không biết tổng quát hóa. Trẻ bình thường có thể học một kỹ năng ở nhà rồi biết áp dụng nó trong những khung cảnh khác nhau, thí dụ như cột dây giầy; trẻ tự kỷ thì phải được dạy lại kỹ năng đó trong khung cảnh mới và với những người mới. Em không có óc tưởng tượng để đặt mình vào tình trạng khác, cũng như không có sự uyển chuyển để lập lại hành vi ở nơi xa lạ, không liên kết được việc cột dây giầy ở trường và cột ở nhà. Do đó cha mẹ cần vạch cho con thấy sự tương tự của hai trường hợp, đây là điều rất quan trọng ta cần nhớ khi dạy về kỹ năng giao tiếp.
Khi dạy con, hãy tìm cách kết nối kỹ năng với khung cảnh có thật, thấy được; nhắc tới thí dụ mà con biết, dùng tên của người mà con biết, cho con tập kỹ năng đang học trong càng nhiều môi trường càng tốt và với nhiều người khác nhau. Ta dạy điều đúng cũng như cho biết điều gì không đúng, bởi người tự kỷ có ý niệm thiếu sót về cuộc sống và cách giao thiệp nên khi bạn dạy cách nói chuyện trong trường hợp nào, thì cũng cần dạy khi nào không nên dùng cách đó.
1. Liên Lạc Tỏ ý.
Chúng ta liên lạc tỏ ý với nhau luôn luôn, bằng cách này hay cách kia và với một hay nhiều giác quan, thí dụ bằng lời tức dùng thính giác, bằng nét mặt và bộ dạng thân hình tức thị giác, bằng cách sờ chạm tức dùng xúc giác như khi ta chạm nhẹ tay ai. Sự liên lạc ngoài việc để tỏ ý nó còn có thể là để tỏ ẩn ý, tức những điều nằm trong câu nói. Người bình thường dùng chữ, văn phạm và cử chỉ không lời để bầy tỏ ý mình, ước muốn và cảm xúc. Tuy nhiên người tự kỷ không hiểu cũng như không sử dụng những thực dụng này và do đó gặp khó khăn trong khi liên lạc tỏ ý. Ngoài ra các thiếu niên khác có ngôn ngữ riêng của các em đầy ẩn ý, hiểu ngầm, chữ tắt, người bình thường có thể đoán ra phần nào nhưng với thiếu niên tự kỷ em không thể nhận ra và nắm được hết các ý nghĩa ấy trong cuộc chuyện trò hằng ngày.
Em cũng gặp trở ngại với văn viết. Chuyện không hiểu bài có thể không lộ rõ ở bậc tiểu học, vì sách ở trình độ này có tính cụ thể và câu hỏi đặt trên dữ kiện, hơn là phân tích và suy nghĩ trừu tượng. Lên trung học, khi xem sách học sinh bị đòi hỏi tìm hiểu tâm lý nhân vật, hiểu chuyện gì xẩy ra cho nhân vật trong chuyện. Tuy nhiên một trong những khiếm khuyết của chứng tự kỷ là khó mà hiểu được ý người, và khiếm khuyết lộ rõ thêm trong những năm của tuổi thiếu niên.
Điểm chung hay thấy là em không thể đoán người khác nghĩ gì, có ước đoán sai lầm về người khác biết hoặc không biết điều chi. Khi nói về đề tài ưa thích thì trẻ thao thao bất tuyệt, nhưng khi gặp đề tài mà người khác đưa ra thì thiếu niên bị lúng túng, không biết cách đối đáp, vì điều này đòi hỏi em phải thay đổi sự chú ý và hành vi của mình, cũng như không hiểu được ý người đối diện. Ở đây ta phân biệt có hai ý niệm:
– Không muốn làm.
Thiếu niên bình thường có thể chuyện trò huyên thuyên không dứt với bạn đồng lứa, nhưng khi nói chuyện với thầy cô, cha mẹ thì em trả lời nhát gừng, vì em không muốn làm.
– Không thể làm.
Thiếu niên tự kỷ không thể nói chuyện một cách trôi chẩy vì em không có khả năng làm vậy, ngay cả khi em rất muốn làm.
Trẻ không biết nhịp điệu của câu chuyện, không biết khi nào có thể xen vào tỏ ý hoặc lái câu chuyện sang hướng khác. Có than phiền là em hay ngắt lời, sự thực là em không biết khi nào người đối diện nói hết hay chưa; khi thấy họ dừng câu và có sự yên lặng thì thiếu niên cho rằng mình có thể mở lời, tật này thấy rõ nhất khi có chuyện trò tay ba hay nhiều người hơn. Nhịp điệu của cuộc nói chuyện và sự phức tạp vì có nhiều người tham dự làm cảm quan của em bị kích thích quá độ, dẫn tới nhiều sai sót trong lúc trò chuyện.
Những sai sót vừa nói xẩy ra không phải vì thiếu niên tự kỷ thiếu lễ độ, cố ý làm phật lòng người khác (nói với người lớn bằng ngôn ngữ dùng cho bạn cùng trang lứa với em), hoặc vì em không hiểu biết, mà có nhiều nguyên do như em không biết tự điều chỉnh phản ứng của mình (thí dụ sửa lại giọng nói và âm lượng cho hợp), không có điệu bộ dễ coi, không ý thức rõ ảnh hưởng của hành vi em đối với người khác, không hiểu thấu đáo tình trạng chung quanh có nghĩa gì và chót hết là người ta có mong đợi gì đối với em.
Để giúp thì có hai chuyện phải làm là thay đổi cách chúng ta nói với thiếu niên, và chỉ dẫn em cách xử sự.
2. Cách Giao Tiếp.
● Lời Nói, Cách Nói
○ Hãy thuần nhất trong lời nói và dấu hiệu không lời mà bạn trưng ra, và đừng bầy tỏ quá nhiều cảm xúc vì bạn có thể làm con ngợp. Nếu có gì không vừa ý, chờ lúc con và bạn dịu xuống rồi hãy hỏi kỹ về chuyện.
○ Đừng nói quá nhiều và quá mau, ngưng sau mỗi ý hay chỉ dẫn, cho thiếu niên có giờ xếp đặt ý tưởng mà bạn đưa ra, sau đó hãy đi tới ý tiếp theo. Cũng y vậy, khi đặt câu hỏi thì cũng dành thì giờ để em nắm vững ý, nếu cần thì nhắc lại, đề nghị đưa ra là bạn đếm tới 15 rồi hãy nói tiếp.
○ Tránh dùng chữ trừu tượng, nghĩa bóng, mỉa mai mà hãy đề cập thẳng điều gì bạn muốn nói. Người tự kỷ không thay đổi hành vi khi thầy cô nói:
- Chà, Sarah là nhà thông thái cái gì cũng biết.
Thay vào đó thầy cô nên nói:
- Sarah, em đã trả lời nhiều rồi, câu này để cho bạn khác.
○ Nói rõ ý bạn muốn gì, muốn thiếu niên làm chuyện gì. Thí dụ không nên nói
- Dọn phòng cho gọn gàng, sạch sẽ.
mà nói rõ ràng công việc cần làm
- Con cất sách lên kệ, bỏ quần áo dơ vào rổ.
Một khi người tự kỷ biết mình phải làm gì, thường là họ làm chăm chỉ, tận tâm và đó là tính chất khiến họ thường là nhân viên cần mẫn làm chủ nhân rất hài lòng.
○ Người tự kỷ không phân biệt được cách tế nhị khi giao tiếp do đó bạn phải làm gương. Nếu muốn con đối xử đúng cách với ai thì cha mẹ cũng cần làm vậy trước mặt thiếu niên, có nghĩa cũng tỏ ra lễ độ, cung kính với bà hiệu trưởng cho con bắt chước, dù rằng bà có thể là bạn thân của cha mẹ. Theo cùng cách ấy, tránh nói những chuyện
kín đáo, tế nhị hoặc dùng chữ hai nghĩa trước mặt con. Thiếu niên không tinh tế có thể lập lại y vậy trong khung cảnh không thích hợp hay với người khác, gây ra cảnh khó xử cho bạn. Đừng quên rằng người tự kỷ có tài nhái giọng rất tài tình mà hoàn toàn không ý thức là mình nói gì, cùng ảnh hưởng của những điều mình nói đối với người khác.
○ Vạch ra cho con thấy những ý ngầm, luật bất thành văn mà ai cũng 'biết' trong xã hội mà người tự kỷ không biết. Trẻ bình thường chỉ cần nhìn hoặc nghe người khác nói chuyện là có ý niệm về qui tắc hành xử trong cách giao thiệp, nhưng trẻ tự kỷ thiếu sự nhậy bén đó vì không hiểu được trí người, do đó cha mẹ cần diễn dịch lại tiếng lóng để tránh cho con bị chọc ghẹo hay xấu hổ về sau, khi bạn bè dùng chữ mà em không hiểu.
○ Dạy con chữ có nhiều nghĩa, vạch cho thấy một chữ có nghĩa này trong trường hợp này mà lại có nghĩa khác trong trường hợp khác tùy theo hoàn cảnh. Khi ra phố và trò chuyện với người khác, có thể xếp đặt trước để ra dấu cho con biết đây là một chữ có nhiều nghĩa.
○ Giải thích nghĩa bóng, khuyến khích con dùng những chữ có nghĩa thú vị. Tuy nhiên cũng phải dạy thiếu niên dùng được hay không thể dùng chữ ở đâu và khi nào.
○ Dạy con hỏi xin một cách nhã nhặn để được giúp đỡ. Thiếu niên có thể ngần ngại nhưng khi em không hiểu chuyện gì thì đó là cách duy nhất để được giải thích, làm sáng tỏ vấn đề.
○ Dùng tên con luôn – con cần biết là bạn đang nói chuyện với mình. Nếu cần thì tắt truyền hình hay máy hát, video v.v. để con hoàn toàn chú ý tới bạn.
○ Dùng lời nói giản dị không có những chữ không cần thiết và nói chính xác điều bạn muốn nói, không ám chỉ hoặc có nghĩa bóng, ẩn nghĩa; tức đừng nói 'Nước đến chân mới nhẩy' vì trẻ tự kỷ thường chỉ hiểu theo nghĩa đen.
○ Cho con có giờ cần để hiểu điều bạn nói và xếp đặt thông tin.
○ Bắt con phải nói để có được điều chúng muốn như thực phẩm hay chôi ñieàu gì. Bạn có thể đòi hỏi là câu nói phải có ít nhất 5 chữ, trẻ có thể không có chữ vậy bạn cần dạy chữ cho con.
○ Nói rõ ràng xác định ý của bạn, đặc biệt là về thời điểm bạn sẽ làm chuyện gì đó, thí dụ 'Mình sẽ ra xe đi ngay sau khi ăn sáng xong', hoặc 'Con có thể chơi banh lúc 5 giờ'.
○ Dùng hình để tỏ ý nếu điều ấy giúp con liên lạc tỏ ý dễ dàng hơn.
○ Tỏ ra tích cực và yêu cầu con làm điều chúng nên làm, hơn là căn dặn điều chúng không nên làm.
Một bà mẹ ví von rằng dạy trẻ tự kỷ thì có phần nào giống như huấn luyện chó ! Theo nghĩa ta cho rằng trẻ bình thường biết được nhiều điều còn chó thì không biết gì hết nên ta ra lệnh ngắn gọn 'Ngồi, Chạy, Đi'. Cách này áp dụng được cho trẻ tự kỷ như ta nói 'Matt, nắm tay mẹ ngay !' hoặc 'Ken, đứng lại', trong khi nói câu dài dòng phức tạp, trừu tượng sẽ làm rối trí con và không đạt kết quả.
○ Thiếu niên đang bước vào tuổi dậy thì, do đó điều hết sức quan trọng là dạy trẻ điều gì em tuyệt đối không thể nói hay không thể làm. Mới đầu ta dạy trẻ tôn trọng ý người khác là khi họ nói không thì nó có nghĩa là không, nói ngưng là ngưng. Về sau khi thiếu niên lưu ý tới người khác phái thì mở rộng ý này để sang vấn đề tính dục, và điều này phải dạy cho cả trai lẫn gái.
○ Vạch cho thiếu niên thấy những cách tỏ ý không cần lời, tức biết nhận ra ý nghĩa của nét mặt, điệu bộ, cử chỉ. Hãy đặt ra luật đi kèm với hiểu biết này thí dụ khi người lớn đột ngột ngưng nói thì lặng thinh chờ đợi, khi người lớn 'liếc' nhìn (bạn thường xuyên làm cho con thấy) thì cũng yên lặng lắng nghe. Video và phim, kịch trên truyền
hình là phương tiện hướng dẫn rất hữu ích. Hãy cùng xem với con và tới đoạn cần giải thích thì ngưng lại, nói chuyện rồi coi tiếp; hoặc có thể nhắc lại cảnh tượng con đã thấy trong ngày và phân tích cho con thấy. Bạn cần nhấn mạnh là việc diễn giải này không làm ở nơi đương sự có thể nghe được.
○ Thiếu niên cũng cần biết để không vi phạm khoảng cách cá nhân, ý chính là mỗi người có một khoảng không gian bao quanh mà họ cảm thấy thoải mái khi nói chuyện, thường thường khoảng cách là một sải tay và em không nên vi phạm, cũng như khi cảm thấy bị vi phạm thì phải làm sao. Hãy dạy con vài câu thích hợp để nói trong trường hợp này.
● Giọng Nói.
Hãy dùng các giọng nói khác nhau cho những lúc khác nhau:
○ Nói bình thường khi trò chuyện, chỉ bảo, dạy dỗ.
○ Nói nghiêm nghị, tỏ ra quyền uy khi đòi hỏi con theo luật, đòi hỏi sự vâng lời.
○ Nói ôn hòa, thấp giọng hơn bình thường khi con la hét làm nư, ăn vạ. Hãy tưởng tượng có quả banh thẩy vào tường, tường cứng rắn thì lực thẩy mạnh bao nhiêu banh sẽ dội lại mạnh bấy nhiêu; nhưng nếu banh thẩy vào hồ nước thì lực mạnh hay yếu bao nhiêu banh cũng hoặc sẽ chìm, hoặc sẽ nổi lên mặt mà không văng ngược trở lại, và do đó hóa giải được lực ban đầu.
○ Đặt ra những luật về giọng nói, điệu bộ thân hình và chữ dùng khi nói chuyện với những người khác nhau, vì lẽ giản dị là thiếu niên tự kỷ không biết điều chỉnh những việc trên cho hợp với hoàn cảnh. Em có thể không ý thức là phải đứng thẳng người, nói năng lễ độ, không dùng tiếng lóng khi nói chuyện với ông bà nội, thầy cô, chủ nhân. Luật giản dị như 'Tránh nói tục, tiếng lóng, đứng ngay lưng với người lớn' là đủ và hữu ích.
Cha mẹ cũng cần dạy về giọng nói lớn, nhỏ, và cách nhấn âm; hãy tập nhiều lần để con biết cách làm chủ giọng nói và điệu bộ.
● Vòng Giao Tiếp
Đây là cách dạy cho con hiểu rõ thế nào là chuyện riêng tư và tế nhị, vì nhiều thiếu niên không ý thức là có những điều chỉ nói trong gia đình mà không thể trưng ra ở nơi công cộng cho mọi người biết.
Thầy cô hay dùng ý niệm các vòng đồng tâm để dạy chuyện này, vòng trong cùng là gia đình gồm người thân cận nhất thì có thể nói chuyện như 'Lương của ba là ...', 'Bà ngoại phải vào bệnh viện tâm thần', 'Mẹ nghĩ về người đồng tính luyến ái như vầy ...', 'Chú Ba đang đi tìm việc mới.' Ra tới những vòng xa hơn tức nơi công cộng, thiếu niên được dạy kỹ năng trò chuyện tế nhị hơn. Có thể em không hiểu rõ tại sao phải làm vậy nhưng khi cha mẹ đặt ra qui tắc rõ ràng thì trẻ làm theo luật do tính tự kỷ. Chẳng những vậy, em còn vui thích thêm vào hình những hoàn cảnh mới. Xin đọc thêm về vòng trong chương Tính Dục.
○ Ý niệm vòng cũng áp dụng được cho giới hạn của việc tiếp xúc cơ thể như hôn, sờ chạm thân hình.
Một bà mẹ dùng mầu sắc cho các vòng, thí dụ vòng trong cùng mầu vàng gồm gia đình và thân nhân hàm ý có thể ôm và hôn, vòng kế đó có mầu xanh là người quen biết
thì chỉ được phép bắt tay, và vòng ngoài hết có mầu đỏ gồm người lạ thì hoàn toàn không có đụng chạm. Khi ở trong khung cảnh lạ hoặc trường hợp mới, bà mẹ kín đáo cho con thấy mầu để biết cách xử sự đúng đắn. Không phải chỉ có con gái mới cần biết để phòng thân, mà ý niệm thân thuộc và không thân thuộc cũng cần được dạy cho con trai.
Luật cũng áp dụng ngược lại, thiếu niên cần hiểu là em không thể sờ, chạm vào bất cứ ai. Điều này cần nhấn mạnh và đòi hỏi phải tuân theo sát, bởi do tật của chứng tự kỷ, có trẻ học về thế giới bên ngoài bằng xúc giác nhiều hơn, trẻ khác dùng khứu giác, và hành vi dễ gây hiểu lầm và gây khó khăn cho em. Thiếu niên có thể lại gần người lạ để vuốt má (xúc giác) hoặc để ngửi tóc (khứu giác), là những hành động phạm luật, do đó cha mẹ phải đặt ra qui tắc cho con.
3. Giúp Phát Triển Kỹ Năng Trò Chuyện.
Trẻ tự kỷ thấy kỹ năng trò chuyện là việc khó làm vì một số lý do. Chẳng hạn ta không tiên đoán cũng như không thể có câu đáp ngay tức khắc là cuộc trò chuyện sẽ đi về đâu, việc không biết chắc này là trong các yếu tố khiến người tự kỷ nhất là trẻ và thiếu niên thích trò chuyện với ai lớn tuổi hơn hoặc nhỏ tuổi hơn mình, và tránh bạn cùng trang lứa. Lý do là em có thể làm chủ câu chuyện, nói về đề tài em ưa thích, không bị bối rối vì không có đề tài lạ đưa ra; kế đó người lớn và trẻ nhỏ hơn sẽ chịu lắng nghe em hơn là ngắt lời.
Để giúp con, trước hết tập cho thiếu niên những kỹ năng căn bản như đứng thế nào, hướng về đâu, giữ khoảng cách bao xa v.v. Nếu cần thì dùng hình để làm rõ thêm lời chỉ dẫn. Kế đó dạy con thuật chuyện trò bằng những cách sau:
○ Nói về sở thích đặc biệt của em. Nhiều trẻ tự kỷ ưa thích một ngành riêng biệt hoặc đề tài mà em biết rất nhiều, và em thích về điều này với người khác. Tuy nhiên em cần biết rằng khó có ai thích nghe liên tục 20 phút không ngưng về một chuyện gì, và không phải ai cũng thích đề tài mà em thích. Xin đưa ra một cách để tập cho trẻ tự tin nói chuyện là kêu em viết vào những mẫu giấy nhỏ các đề mục khác nhau, như con thú mà em thích, nơi nghỉ mát ưa chuộng, thời tiết hôm nay, ca sĩ mà em ái mộ, phim xi nê em muốn xem, đĩa CD em muốn mua. Xếp hết các mẫu giấy bỏ vào hộp rồi kêu con lấy ra một mẫu và trò chuyện về đề tài ghi trên đó, nhờ vậy em sẽ học được kỹ năng thảo luận về các đề tài khác nhau ngoài sở thích của mình, và nói được trôi chẩy. Xong chuyện thì bỏ đề tài đó và qua hôm sau chọn một đề tài mới.
○ Tập cho con nói với người đối diện mà không phải là giảng bài cho họ nghe. Nhận xét nói là nhiều người khi nói chuyện với ai tự kỷ thì thấy như họ đóng vai trò hết sức thụ động, có cảm tưởng như được nghe giảng hơn là thực sự trò chuyện. Thiếu niên cần biết thay phiên trong khi nói chuyện, bạn có thể đặt đồng hồ tính giờ (timer) để cho biết được nói trong bao lâu.
○ Điểm quan trọng khác là những câu phải tránh. Trẻ tự kỷ không hiểu được ý người nên có khi hỏi những câu không thích hợp như:
- Lương anh bao nhiêu ?
- Sao chị mập quá vậy ?
Với câu:
- Bà mấy tuổi ?
Bạn có thể giảng là hỏi trẻ con thì được mà không nên hỏi người lớn. Một câu khác cũng nên dè dặt là:
- Anh ở đâu ?
Cho em hay là hỏi về ngoại ô thì không sao, nhưng không nên thúc đẩy để có số nhà và tên đường.
○ Trẻ tự kỷ và nhất là trẻ có hội chứng Asperger có thể có cách nói trịnh trọng, làm em già dặn hơn các bạn, khiến em nổi bật làm mọi người chú ý. Hãy xem chắc là con có những câu trả lời thích hợp với tuổi, thí dụ tập cho em nói với bạn đồng tuổi:
- Số dách !
thay vì:
- Thế thì hay lắm nhỉ !
hoặc nói:
- Còn khuya !
mà không nói:
- Tôi rất tiếc là không được.
hoặc những câu gì phổ thông hiện giờ.
Điểm khác là tập cho con dùng ngôn ngữ khác nhau cho những trường hợp khác nhau, phân biệt mình đang nói chuyện với ai và dùng chữ tương ứng. Thí dụ trả lời bà hiệu trưởng thì sẽ khác với nói chuyện trong lớp giữa bạn bè với nhau; bạn có thể nhấn mạnh ý và giúp con thành thạo bằng cách tập đổi vai người lớn / thiếu niên, bạn / bạn, thiếu niên / trẻ nhỏ hơn, và có hình cho những cảnh này thì càng tốt.
○ Tập cho con quen với việc thay đổi đề tài nói chuyện, không nói mãi điều gì em ưa thích.
○ Cho con thời hạn nói chuyện, đừng nói quá lâu. Bạn có thể dùng đồng hồ tính giờ (timer) để tập với con.
○ Soạn cho con những câu 'tủ', lời bình phẩm dễ nói, câu hỏi có sẵn. Thí dụ dạy con luật: 'Khi người khác nêu ra một đề tài gì, nên hỏi hai hay ba câu sau đó, mà không nên đổi ngay lập tức sang chuyện con muốn nói.'
○ Dạy con cách khơi chuyện, hỏi chuyện làm quen, cách hỏi để chơi chung với bạn và cách chơi chung tức biết thay phiên nói, biết chờ đợi cho người khác nói hết ý của mình trước khi em xen vào bình phẩm hoặc đặt câu hỏi. Một cách để dạy là viết chuyện bằng hình, vẽ hình người với bong bóng chứa đựng ý muốn nói. Theo cách đó trẻ hiểu là ai cũng có điều muốn bầy tỏ và học được ý niệm chờ tới phiên, học được cách suy nghĩ và cảm xúc của người khác. Viết chuyện còn có một lợi điểm khác là bạn có thể soạn ra một số câu dùng cho trường hợp hay gặp, như cách chấm dứt cuộc trò chuyện vì tới giờ phải làm chuyện khác
Trong phần này ta nói nhiều đến việc soạn sẵn một số câu tùy theo trường hợp cho trẻ dùng. Bạn nên dượt tới lui với con trong nhà tức khung cảnh quen thuộc cho em cảm thấy yên tâm, thoải mái và sẽ học dễ. Sự việc chuẩn bị cho em sẵn sàng khi gặp trường hợp phải dùng, và tuy chúng có thể cần nhiều thì giờ để soạn và để tập, khi hữu sự thì chúng sẽ cho ra hiệu quả lớn lao, tránh được phiền toái hay khó khăn cho con và cho bạn.
Luật và câu soạn sẵn có thể cho ý nghĩ rằng thiếu niên nhắm mắt làm hay nói mà không hiểu nguyên tắc của luật, cha mẹ bảo
- Nhưng tôi muốn con biết tại sao phải lễ độ khi nói chuyện với người có quyền hành,
và thầy cô nhận xét:
- Em làm theo bài bản soạn sẵn, mà không phải chính em muốn vậy.
Chuyên gia tâm lý khuyên ta nên từ từ, rồi sẽ tới lúc trẻ hiểu và tự mình biết cách hành động. Trong lúc này ta phải tập cho em những hành vi để liên lạc tỏ ý, cho phép em giao tiếp với người khác; những nguyên tắc, qui luật sẽ hóa rõ ràng hơn cho em, khi thiếu niên có được nhiều cơ hội thực tập việc liên lạc tỏ ý.
Hãy làm cho con học mà vui, giữ óc khôi hài trong khi dạy để làm cho cuộc sống được thoải mái. Bạn có thể thấy những phần trên đòi hỏi nhiều công sức, nhưng con sẽ phải giao tiếp cả đời về sau, bằng cách này hay cách kia trẻ phải học cách giao tiếp có hiệu quả, và cha mẹ không thể không dạy con cách liên lạc tỏ ý.
4. Dạy Khi Nào
Câu đáp tùy thuộc vào hoàn cảnh riêng của gia đình bạn nên không có câu đáp chung, người thì chủ trương lúc nào cũng dạy được, người thì dành một thời khắc cố định hằng tuần như sáng thứ bẩy v.v. Những điều quan trọng cần nhớ khi chọn cơ hội để dạy là:
○ Đừng dạy trong lúc có căng thẳng cao độ. Khi con lo lắng thì em không thể hấp thu bất cứ thông tin mới nào, lấy thí dụ khi em nổi xung vì anh không chịu nhường xe hơi để chơi thì đó không phải là lúc dạy về tính chia sẻ.
○ Cũng y vậy, đừng xếp đặt việc dạy lúc có chương trình truyền hình mà em ưa thích, hoặc vào ngày mà bạn biết con đặc biệt bị căng thẳng như hôm có tập thể dục.
○ Làm buổi học vui vẻ và ngắn. Bắt đầu với hoạt động mà con ưa thích như chơi trò có tương tác, đòi hỏi một số kỹ năng giao tiếp như chia sẻ, làm theo lệnh, lắng nghe, chờ đợi, hoặc điều gì khiến con đặc biệt chú ý. Về sau bạn có thể tăng thời gian buổi học và khiến có phức tạp nhiều hơn.
○ Buổi học đầu chỉ có một thầy một trò, nếu được; qua những buổi sau dần dần cho thêm anh chị em, hàng xóm, bạn học tham dự vào.
○ Xếp đặt để luôn luôn chấm dứt buổi học mà con thành công, làm được chuyện. Hỗ trợ con rồi từ từ lơi dần để con có thể tự làm. Tạo khung cảnh tích cực và khen ngợi con, nó rất quan trọng vì trẻ có thể thấy khó mà tập những kỹ năng này. Trẻ cần được khuyến khích để có tự tin, sẵn lòng nhận rủi ro để thử kỹ năng mới.
II. NHỮNG YẾU TỐ KHÁC.
● Hợp Tác với Trường.
Cho dù ở nhà bạn dạy nhiều và kỹ lưỡng ra sao, nếu thiếu niên không biết tổng quát hóa và áp dụng kỹ năng vào những hoàn cảnh khác thì em không ứng dụng rộng rãi chuyện đã học. Thế thì hãy liên kết với trường, cho trường biết bạn đang dạy con điều chi và xin trường củng cố nó, hỗ trợ trong lúc con ở trường. Điều gì khó khăn ở nhà có thể cũng khó khăn ở trường cho con, và nếu bạn dạy con cách đối phó thì làm vậy có lợi cho trường, nên nhiều phần là trường sẽ sẵn lòng trợ giúp bạn.
Cha mẹ cũng có thể đề nghị có sự linh động trong chương trình học của con ở trường. Lấy thí dụ con được có phụ giáo trong giờ toán và nay bạn thấy con có thể tự ngồi làm bài một mình, nhưng lại thiếu kỹ năng giao tiếp khiến con không có ai chơi, bạn có thể gợi ý là xếp lại giờ cho con có phụ giáo vào lúc ra chơi thay vì giờ toán, để có người dạy con cách tương tác và kết bạn.
○ Gia nhập các nhóm.
Hội Tự Kỷ trong vùng có thể có những chương trình sinh hoạt cho người tự kỷ với các nhóm thuộc lứa tuổi khác nhau. Đây là cơ hội tốt cho con bạn học giao tiếp, thực tập kỹ năng trò chuyện, kết thân. Bạn nên tìm hiểu để cho con tham dự. Ngoài ra trong cộng đồng cũng có nhiều nhóm khác nhau mà trẻ có thể gia nhập tùy theo sở thích. Trường hay thư viện có những lớp giữa hai học kỳ, là dịp cho trẻ mở rộng môi trường tiếp xúc.
● Ý Kiến Thực Dụng.
○ Nhận biết nét mặt.
Nhiều trẻ tự kỷ chỉ biết có ba chữ để nói về tình cảm là vui, buồn và giận và không còn biết thêm chữ gì khác. Cha mẹ hãy bắt đầu với các cảm xúc này rồi nói tới những tình cảm khác như ngạc nhiên, hoang mang v.v. và dùng hình biểu lộ cho con thấy. Bạn có thể làm lấy những hình về nét mặt bằng cách dùng bánh biscuit hình tròn hay vuông làm đầu, hạt nho khô làm mắt, mũi, carot cắt sợi nhỏ làm miệng. Hãy dùng óc sáng tạo làm cho việc học trở nên thích thú, vài cách khác để bạn cùng làm với con là dùng đĩa giấy làm gương mặt và vẽ cảm xúc lên đó, làm mặt nạ, hoặc dùng chính gương mặt của bạn để lộ cảm xúc và dạy con bắt chước, nói chuyện về những trường hợp nào mà bạn có nét mặt như thế.
Phim hoạt họa là một phương tiện hữu hiệu khác để chỉ cho trẻ biết về cảm xúc, vì thường khi nét mặt được biểu lộ thái quá trong phim; bạn có thể cùng con xem phim và ngưng lại ở chỗ thích hợp, nói về khúc đó và bắt chước nét mặt trong phim. Cách nữa là chụp hình gương mặt của con hay bạn hay người khác biểu lộ một tình cảm riêng biệt, và chỉ cho con thấy sự tương đồng giữa các nét mặt; làm vậy cũng giúp cho con biết tổng quát hóa.
Vài website trên internet có hình và trò chơi về nét mặt và những tình cảm khác nhau, bạn có thể in ra để cho con thấy, hoặc cho con chơi trò trong website này:
www.dotolearn.com/games/facialexpression.
○ Nhận biết cử chỉ, điệu bộ.
Nhiều ý tưởng ở trên có thể áp dụng vào việc học về ý nghĩa của bộ dạng thân hình. Sách báo là nguồn tài liệu rất đáng kể, bạn có thể cắt ra hình trong tạp chí mà điệu bộ tích cực hay tiêu cực, hỏi ý con là cảm xúc nào đi với điệu bộ ấy rồi giải thích thêm; hoặc viết tên các cảm xúc ra từng miếng giấy rời và để con ghép cảm xúc với cử chỉ tương ứng.
Chẳng những bạn dạy con hiểu được bộ dạng của người khác, mà điều quan trọng là cũng dạy cho con ý thức điệu bộ của mình. Hai chuyện có thể làm được là chụp hình con lúc giao tiếp với người khác, lúc đi ra ngoài, cho trẻ biết người chung quanh nhìn thấy em ra sao; hoặc thỏa thuận trước với con về dấu hiệu mà bạn sẽ làm (như vỗ trán, xoa tay) khi con có điệu bộ không thích hợp nơi công cộng, để con biết và tự sửa.
● Tình Cảm.
Bạn chỉ nên qua mục này sau khi đã dạy con những kỹ năng căn bản ở trên. Trong phần này điều nhắm tới là cho con biết những động cơ nằm sau tình cảm, cùng hiểu rằng phản ứng tình cảm của mỗi người rất khác nhau. Đầu tiên, hãy lập một danh sách những cảm xúc như buồn, hân hoan, kế đó vài ngày bạn lại dạy con một cảm xúc mới (kêu con biểu lộ nó), nói về khi nào con cảm thấy như thế, kể lại chính bạn có cảm xúc ấy lúc nào để con hiểu thêm. Nếu muốn bạn có thể giúp con lập 'từ điển cảm xúc' bằng cách chụp hình con diễn tả một cảm xúc, hoặc kêu con vẽ hình để coi lại khi cần.
Khi đã có danh sách hoặc từ điển rồi, trẻ có thể phân loại cảm xúc tích cực và tiêu cực và tô mầu hoặc viết chữ bằng mầu tương ứng (thí dụ tiêu cực là mầu đỏ còn tích cực là mầu xanh), hoặc dán sticker mầu đỏ hay xanh lên một góc của hình, lý do là người tự kỷ thích những gì thấy được và dùng mầu sắc là một cách để các ý niệm trừu tượng hóa ra cụ thể hơn, dễ nhận hơn. Tốt hơn nữa là cho con chọn mầu sắc, và khi con đã hiểu cảm xúc thì có thể khơi rộng ra là dùng số để cho biết cường độ của cảm xúc (1 = ít, 2 = vừa, 3 = nhiều v.v) hoặc cách khác là vẽ hình nhiệt kế bên cạnh gương mặt hay chữ. Ý chính vẫn là diễn đạt tư tưởng bằng hình để giúp em hiểu.
Tập thói quen hỏi về cảm xúc của mỗi người trong nhà vào những lúc khác nhau trong ngày, thí dụ sáng mới dậy, chiều đi học về, sau khi coi truyền hình. Trẻ sẽ thấy rằng mỗi người cảm xúc về những chuyện khác nhau vào những lúc khác nhau trong ngày, và không phải ai cũng cảm nhận giống em.
Thiếu niên có thể lớn về thể xác nhưng trí não chưa phát triển theo kịp và vẫn còn tri thức của trẻ nhỏ. Trong trường hợp ấy nếu em thích các chuyện, phim nhi đồng thì ta có thể dùng chính các nhân vật trong đó làm mẫu. Cũng có em từ nhỏ tới lớn chỉ thích một số video, coi đi coi lại bao nhiêu năm không chán, ấy cũng là cơ hội để bạn dùng phim mà dạy con. Thường thường phim có một vai trưng ra nét thân thiện, điềm tĩnh, ôn hòa; vai khác lại mang tính đối nghịch như hung hăng, ồn ào, chộn rộn; vai nữa thì lừ đừ, chậm chạp, có rất ít tự tin. Khi bạn ví hành vi của con với nhân vật trong phim và nói:
- Con ào ào như chú cọp con X, phải dịu xuống thì em con mới hiểu con muốn gì.
thì rất có thể nó làm trẻ hiểu là lúc ấy người khác nhìn em ra sao.
Cử động thân hình là một cách khác để dạy về cảm xúc. Bạn có thể bảo con:
- Nhẩy cà đổng, nhẩy tưng tưng
như gặp điều giận dữ, hoặc:
- Nhẩy chân sáo, nhẩy tung tăng
giống như người có chuyện vui thích, và:
- Ngồi lặng lẽ
bắt chước ai ôn hòa.
Làm vậy giúp trẻ liên kết cảm xúc trong lòng với bộ dạng bên ngoài, và cũng hiểu ta xử sự ra sao khi cảm nhận một điều gì. Nói qua một chút về cách đối phó với lòng giận dữ, trẻ sẽ không hiểu được 'làm dịu xuống' nghĩa là sao nếu trước đó em không biết cảm xúc ôn hòa, lắng dịu là gì. Em cần biết cảm xúc là như thế nào, thấy nét mặt ra sao, nghe nó (giọng vui vẻ hay cau có) rồi mới có thể điều chỉnh hành vi của mình.
Những cách tập này chính yếu dành cho thiếu niên tự kỷ có khả năng thấp hay trung bình, và có thể không hợp cho trẻ có khả năng cao hay có chứng Asperger. Với các em sau cách thức cần theo qui củ hơn và có phần tinh tế hơn.
● Hiểu Được Trí Người (Theory of Mind ToM)
Có nhận xét cho là trẻ tự kỷ và trẻ có chứng Asperger làm như không biết những luật bất thành văn của việc giao tiếp trong xã hội, và sẽ vô tình nói hay làm những điều có thể chọc giận hay làm người khác bực mình. Chúng thấy khó mà đặt mình vào địa vị người khác, hoàn cảnh khác, và cũng khó mà hiểu là họ có thể có cảm nghĩ, sở thích khác với mình. Đây là điều mà nhiều trẻ gặp xung đột và là lúc hành vi không thích hợp xẩy ra. Bạn có thể không dạy được con thực sự hiểu quan điểm của người khác, nếu vậy thì mục tiêu chính là giúp em ý thức rằng họ có suy nghĩ khác với em.
Một cách giải thích là giả dụ đi chợ, hỏi em muốn mua gì rồi nói tới người mà em quen biết, cùng nhau đoán là họ thích mua những món nào rồi phân tích tại sao. Thảo luận những kinh nghiệm hàng ngày cho thấy người ta phải chọn lựa ra sao, nêu rõ cho con thấy như khi chọn mua quần áo, chọn thức ăn theo ý, chọn chương trình truyền hình v.v.
● Khi làm sai, bị thua, có xung đột.
Đây là những tình trạng mà người tự kỷ thấy rất khó xử, nó đòi hỏi cách đối phó khéo léo với người khác nhưng đó là kỹ năng mà họ yếu kém, một phần vì không hiểu được trí người, phần khác do không nhận ra được tình cảm của chính mình hay của người khác, vốn là hai trong số những khó khăn chính của chứng tự kỷ. Nhiều hành vi không thích hợp bắt nguồn từ hai thiếu sót này, thí dụ như khi bực bội thì la hét và bỏ chạy là chuyện dễ làm cho thiếu niên hơn là nói:
- Tôi không hiểu, tôi cần được giúp đỡ.
Kỹ năng này rất khó tập cho người tự kỷ và cần nhiều sự kiên tâm, trì chí.
○ Làm sai.
Trẻ tự kỷ dễ vo giấy lại và bỏ thùng rác thay vì gạch bỏ câu sai và làm lại. Hãy thuật lại sai sót của bạn, thêm mắm thêm muối một chút cho lôi cuốn để thiếu niên thấy là người khác cũng có lúc phạm lỗi, và chuyện có thể sửa lại được. Hãy nói ra cảm xúc của mình:
- Đổ ly nước rồi, mẹ ngượng quá.
rồi cho hay cách giải quyết:
- Để mẹ lau sạch rồi rót ly khác.
○ Xúc động mạnh.
Nếu thiếu niên có ngôn ngữ thì dạy con kỹ năng đối phó với xúc động khi em nhận ra có những dấu hiệu báo trước như người căng thẳng, thở hơi ngắn; nếu em không biết nói thì bạn nói tên cảm xúc cho con biết, và hướng con đến sinh hoạt làm dịu xuống. Cách khác là cho con tấm thẻ viết chữ 'Giúp Em', để thiếu niên đưa cho người lớn trong trường hợp em không thể nói lên xúc động trong lòng. Lẽ tự nhiên bạn phải giải thích thẻ để làm gì, khi nào dùng thẻ; và nhất là để thẻ ở một chỗ nhất định cho con có ngay khi cần.
○ Được, thua.
Có bàn thảo cả nhà về chuyện thắng thua với tin trên báo như tranh tài thể thao, giải thưởng xuất sắc trong năm v.v.
○ Xung đột.
Khi con có tranh chấp hoặc tranh cãi với người khác thì chuyện cần được bàn thảo và có giải quyết cho xong. Điều cần nhớ là giải quyết phải dựa trên sự kiện thực tế thay vì tình cảm, vì nêu ra lý do tình cảm sẽ không thuyết phục được người tự kỷ. Hãy theo sát dữ kiện và giúp con nhận ra những phần khác nhau của việc mà có thể trẻ bỏ qua, thí dụ quan điểm của người khác, hiểu lầm lời nói, ẩn ý v.v.
Đề nghị đưa ra là vẽ hình hai người tranh cãi với bong bóng ghi lời nói và ý nghĩ, cảm xúc, hành động của mỗi bên. Hình là phương tiện cụ thể cho thiếu niên xem lại và ngẫm nghĩ thêm, nhắc nhở em kinh nghiệm trải qua, mà cũng trưng cho thấy rõ ràng những điều có thể bị che khuất như tình cảm, ý định, giúp em hiểu được ý người; hình còn nhấn mạnh thêm lời giải thích của bạn. Xem phim, kịch trên truyền hình hay video cũng cho bạn thêm ý về cách xử sự trong những trường hợp giao tiếp khác nhau. Bạn có thể thâu lại phim và ngưng ở đoạn cần giải thích, thảo luận với em về cách đối phó trong trường hợp ấy.
Lòng tự tin cũng can dự ở đây. Trẻ tự tin sẽ không lo lắng khi làm sai một chuyện, nhưng trẻ thiếu sót kỹ năng và cảm thấy bất an với môi trường chung quanh có thể rất bực bội với cùng sai sót ấy. Giúp con tăng cường lòng tự tin và tạo khung cảnh dễ tiên liệu việc sắp tới, có thể làm giảm thiểu ảnh hưởng khi làm sai. Chót hết, nói về sinh hoạt con sắp làm (thí dụ như trò chơi) trước khi bắt đầu cũng giúp ích cho trẻ. Nếu mục đích của sinh hoạt là thắng cuộc thì cho em biết kết cục có thể là thắng mà cũng có thể là thua, và giải thích tính chất của trò chơi. Bạn sẽ thấy có em ngạc nhiên là sẽ có người bị thua !
III. TÌNH BẠN
Cha mẹ hay kể rằng biết con không có bạn hoặc khó có bạn, nên họ giúp baèng cách mời bạn của trẻ đến nhà chơi. Phút trước hai trẻ chào hỏi nhau, ra sân chơi, vài phút sau bà mẹ quay lại thì chỉ thấy bạn chơi một mình ngoài sân, còn thiếu niên đã quay lên phòng ngồi đọc sách như thói quen cố hữu. Em không biết phải đối xử ra sao với bạn, cho dù cha mẹ đã dạy việc ấy bao lần.
Có giải thích đó là do thiếu khả năng hiểu được trí người (Theory of Mind TOM), yếu kém này có thể là nguyên nhân cho tính ngây thơ hay gặp nơi người tự kỷ, lớn cũng như nhỏ. Chuyện kể Samantha có chứng tự kỷ học trường bình thường, bị trẻ ở đó cố tình chọc phá; thường khi chúng kêu em làm chuyện không chấp nhận được như cởi hết y phục ở sân chơi. Khi ai cũng phá ra cười thì Samantha rất hoang mang, em tin rằng làm theo lời 'bạn' yêu cầu sẽ khiến trẻ khác coi em là bạn, là điều em mong muốn.
Ta nhắc lại là trẻ tự kỷ có khuynh hướng tương tác dễ dàng hơn và tốt đẹp hơn với người lớn, vì người lớn thường khiến cho việc hóa dễ hơn cho em, và họ trò chuyện với em nhiều hơn là em nói với họ. Khi đó họ gượng nhẹ và nâng đỡ trẻ nhưng cách xử sự ấy không chuẩn bị đầy đủ cho em để có tương tác khó hơn với bạn đồng tuổi.
Vì trẻ khó có bạn, có hai điều cần làm là trước hết giúp em phát triển kỹ năng cần thiết bởi em thiếu những điều này, thứ hai là tạo cơ hội cho em tương tác. Điều sau có nghĩa bạn phải biến đổi môi trường cho thuận lợi hơn để tăng cơ may thành công, em được trẻ bình thường hiểu kỹ năng mới và chấp nhận. Vài thí dụ cho việc biến đổi môi trường để việc giao tiếp có kết quả là chỉ dẫn cho bạn cùng lớp về đặc điểm của chứng
tự kỷ, đề nghị những cách tương tác, chọn vài trẻ tình nguyện kết bạn và làm gương cho trẻ tự kỷ bắt chước.
Chuyện khác cũng nên nhớ là người ta có thể cho rằng trẻ bước vào tuổi thiếu niên hàm ý em có khả năng suy nghĩ nhiều hơn, có thể nắm bắt những ý niệm trừu tượng và khởi sự dạy các ý niệm ấy. Nó không hẳn diễn ra như vậy, mà nhiều phần ta nên nhớ người tự kỷ có trí óc rất cụ thể và khó hiểu điều trừu tượng. Lấy thí dụ thầy cô muốn dạy ý niệm tình bạn cho trẻ, và than phiền là em không nắm được ý nhưng đúng ra thì thầy cô là người không nhận ra vấn đề. Đa số trẻ hiểu tình bạn là gì tuy nhiên ý này tỏ ra tế nhị và trẻ tự kỷ không hiểu được, cũng như khi người ta có một hay hai bạn rồi thì hiểu ý niệm tình bạn dễ hơn !
Nhiều người tự kỷ muốn có giao tiếp mà thiếu kỹ năng cần thiết để giao tiếp có hiệu quả; nhà trường nhận xét một thiếu niên là có hành vi không thích hợp và tỏ ra thờ ơ với các trẻ khác. Quan sát thì thấy trong bữa ăn chung, một nhóm trẻ cùng bàn thảo luận về cóc. Các em vừa bắt đầu thì trẻ tự kỷ chú ý ngay, em nghe rồi bắt đầu cởi giầy, cởi vớ; ngay khi tháo cả hai vớ bỏ xuống đất, trẻ gác cả hai chân lên bàn, nhìn vào đám trẻ kia và nói to:
- Vầy nè, chân có màng !
Đám trẻ ngó em kinh ngạc. Ta thấy ngay là trẻ tự kỷ tỏ ý muốn nhập bọn, muốn là một phần trong khung cảnh xã hội mà thiếu kỹ năng cần thiết để thực hiện được ý theo cách thích hợp và hữu hiệu.
Việc 'không biết cách' này có thể dẫn tới cảm xúc lo lắng về mặt tương giao cho một số trẻ. Nhiều thầy cô và cha mẹ nói rằng khung cảnh giao tiếp bình thường làm trẻ hết sức lo ngại, còn người tự kỷ nói họ có sự lo lắng giống như điều mà nhiều người trong chúng ta kinh nghiệm khi phải đứng nói trước công chúng (tim đập mạnh, đổ mồ hôi tay, run rẩy, khó định trí v.v.) Chẳng những mở miệng nói là chuyện khó, mà chỉ nghĩ tới việc phải làm cũng đủ khiến ta lên ruột. Cách đương đầu tiêu biểu cho đa số chúng ta là tìm cách tránh tình trạng gây ra căng thẳng; cho người tự kỷ là tránh khung cảnh đòi hỏi phải giao tiếp, và hệ quả là không phát triển kỹ năng.
Khi trẻ tiếp tục tránh việc gặp gỡ phải giao tiếp, em tự đánh mất cơ hội để thụ đắc kỹ năng tương tác, tiếp xúc. Với vài người thiếu những kỹ năng này dẫn tới việc tương tác bất lợi với bạn cùng trang lứa, bị tẩy chay, cô lập, lo lắng, sầu não, và luôn cả có ý tự tử. Với kẻ khác nó cho ra khuynh hướng có thú vui giải trí và sinh hoạt cô độc, thành thói quen khó thay đổi. Trẻ nào tỏ ý thích tương tác với bạn thì sự lo lắng nhiều hay ít đóng một vai trò quan trọng cho sự phát triển về mặt xã hội của em. Có trẻ lo lắng khi nghĩ tới chuyện đến gần ai, và có thể tránh nó bằng mọi giá; sự tránh né này làm em có vẻ như không chú ý đến người khác nên chuyện quan trọng là phân biệt điều này, vì ta dễ chữa tật lo lắng hơn là việc thực tình không màng tới ai.
Với thiếu niên tự kỷ nào tỏ ra không quan tâm đến việc có bạn và chấp nhận rằng con không muốn tiếp xúc, cha mẹ vẫn bầy tỏ nỗi lo ngại lớn nhất của mình là về sau con sẽ cô đơn, không có ai thân cận. Trên thực tế, thiếu niên tự kỷ có thể không màng tới việc kết thân với ai, nhưng nhiều thiếu niên AS muốn có bạn, và có bạn thân. Em đi tìm bạn và mong duy trì tình bạn nhưng không thành công, nhiều lần không xong làm thiếu niên bỏ cuộc. Ta sẽ xét tới ba điều sau đây là việc kết bạn, tạo cơ hội rồi kéo dài tình bạn, có sự thân thiết.
1. Kết Bạn.
Khó mà định nghĩa thế nào là một người bạn, và người tự kỷ bị hoang mang nhiều vì không biết được ai là bạn hay không, và lắm khi hiểu lầm ai đó là bạn. Lòng tương thân, sự hồi đáp tình thân, khoan dung, tôn trọng nhau là những điều thấy trong tình bạn chân thật, nhưng đây là những ý niệm trừu tượng và do đó khó hiểu cho người tự kỷ nên không lạ gì thiếu niên thấy rối trí và khó có bạn. Ngoài vấn đề có tri thức đủ để hiểu ý niệm, thiếu niên còn phải có kỹ năng về liên lạc tỏ ý, giao tiếp, tự điều chỉnh hành vi, là những điều khó làm cho em, nên việc đầu tiên là cha mẹ cần thuyết phục để con chịu tập thành thạo các kỹ năng này trước khi tới việc kết bạn.
Vài cách được đề nghị để phát triển kỹ năng kết bạn:
● Có bạn cùng tuổi chỉ dẫn.
Cách này được xem là phương pháp hữu hiệu cho trẻ tự kỷ; nó cho phép ta xếp đặt môi trường làm việc tương tác có nhiều cơ may thành công. Theo đó, bạn đồng tuổi được huấn luyện để dự vào việc bằng cách khơi chuyện hoặc đáp ứng mau lẹ và thích đáng trong ngày học khi trẻ tự kỷ mào đầu. Trẻ nên là bạn học trong lớp, có kỹ năng giao tiếp và chơi đùa tương xứng với tuổi, có thái độ tích cực với trẻ tự kỷ. Em cũng cần được cho biết về hành vi hay có của người tự kỷ. Việc dùng bạn đồng trang lứa có lợi điểm là kỹ năng học được sẽ được thực tập cho bạn bè trong khung cảnh tự nhiên, do vậy tập cho trẻ tự kỷ việc tổng quát hóa.
● Học Tương Tác.
Thiếu niên tự kỷ có thể miệt mài với sở thích của mình, chỉ biết có nó và chỉ nói về đề tài ấy không màng chuyện gì khác. Em thiếu sự đối đáp qua lại, nói chuyện một chiều không có sự trao đổi, cho và nhận; trong câu chuyện em không hỏi người khác và cũng ít khi nói về sở thích, quan tâm của người khác. Để chữa tật này, có phương pháp được áp dụng gọi là 'Làm Ký Giả'. Trẻ được cho đóng vai ký giả tờ báo đi phỏng vấn người khác; em hỏi những điều giản dị như tên, tuổi, sở thích và điều quan tâm. Mục đích chỉ là tập cho trẻ thói quen đặt câu hỏi, gia tăng việc cho và nhận khi trò chuyện; khi đã quen em có thể được tập hỏi những câu thăm dò sâu hơn, để có thêm chi tiết về người khác. Có trẻ thích thú với cách luyện tập nên xin nhiều tờ mẫu mang về nhà.
Tùy theo trẻ, ta có thể đi xa hơn và biến đổi cách này một chút để dạy thêm kỹ năng biết thay phiên, cho và nhận. Thí dụ trẻ tự kỷ được yêu cầu hỏi người khác một câu, người kia trả lời xong tới phiên họ đặt câu hỏi với trẻ tự kỷ; nếu muốn công bằng thì dùng đồng hồ tính giờ hay dụng cụ tương tự, mỗi lần ai hỏi xong thì bấm giờ, có giao hẹn trước là mỗi câu phải trả lời trong vòng bao lâu. Việc trao đổi qua lại này diễn ra trong thời gian nhất định nhằm mục đích là cuối cùng không cần đồng hồ tính giờ nữa trong khi tương tác. Nó tập cho trẻ ứng đối, và thường khi trẻ ăn nói lanh lẹ cũng gặp khó khăn với sinh hoạt này.
● Viết Chuyện (Social Stories).
Cách này đã được nói tới trong những sách trước đây về chứng tự kỷ, xin bạn xem lại. Ở đây ta nói thêm chuyện kể là phương pháp không ép buộc (khác với cách trên), trình bầy các ý niệm và luật trong xã hội dưới hình thức câu chuyện ngắn. Nó có thể dùng để dạy nhiều ý niệm về xã hội và hành vi, như việc chuyển di từ mục này sang
mục kia (là việc khó khăn với người tự kỷ do tính không thích thay đổi và thay đổi sẽ dẫn tới điều không biết làm họ e ngại), chơi trò, đi cắm trại. Cô Carol Gray nghĩ ra phương pháp này năm 1995, đặt ra một số điểm chính yếu để chuyện kể thành công:
– Chuyện phải được viết để đáp lại nhu cầu riêng của trẻ.
– Chuyện phải là điều gì mà trẻ muốn đọc cho mình (tùy theo khả năng)
– Chuyện phải tương xứng với khả năng và mức hiểu biết của em
– Và dùng chữ uyển chuyển như 'có thể', thay vì xác quyết như 'phải', 'sẽ'. Điểm này đặc biệt quan trọng cho trẻ nào có khuynh hướng chống đối, thách thức.
Chuyện kể có thể đi kèm với hình và cho vào máy điện toán, lợi dụng việc trẻ thích chỉ dẫn bằng hình và ưa thích điện toán. Có nhận xét đưa ra là trẻ học được nhiều nhất khi học cùng với việc đóng vai, có nghĩa sau khi viết chuyện xong thì trẻ tập kỹ năng nói tới trong chuyện. Thí dụ đưa ra là khi đọc xong một chuyện về việc giơ tay trước khi nói trong lớp, trẻ sẽ tập giơ tay để cô giáo gọi.
● Đóng Vai, Đổi Vai (Role play)
Đóng vai được dùng chính yếu để dạy những kỹ năng căn bản về giao tiếp. Thường khi trẻ tự kỷ gặp rất nhiều khó khăn trong việc mở đầu việc tương tác xã giao, và để cho trẻ khác dự vào các sinh hoạt của em; nhiều em chỉ dự những sinh hoạt với trẻ khác nếu chính em khởi đầu việc tương tác. Đổi vai gồm có việc diễn những sự tương tác xã giao mà trẻ gặp phải hằng ngày; trong lúc chơi đổi vai, trẻ có thể được yêu cầu khơi mào cuộc nói chuyện với người khác khi người này đang làm một chuyện riêng biệt. Khi đó em sẽ phải hỏi để nhập cuộc, hoặc hỏi người kia chơi với em trong một sinh hoạt khác; người ta thấy cách thứ hai là khó nhất cho trẻ tự kỷ. Em có thể tắc tị mấy phút không biết nói gì hay tiến hành ra sao; mới đầu ta nên cho em có nhiều thì giờ để giải quyết và đáp ứng với cảnh ngộ, rồi sau vài lần em sẽ tăng sự khéo léo và hóa mau lẹ hơn.
● Tự Làm Mẫu bằng băng video.
Phương pháp này là một cách chỉ dẫn để thúc đẩy việc học kỹ năng, cải thiện chúng. Người ta học có kỹ năng bằng cách quan sát chính mình thực hiện chúng. Ưu điểm của nó là phương pháp cho phép người ta học bằng quan sát lẫn bằng kinh nghiệm cá nhân, và nghiên cứu thấy là nó có nhiều hứa hẹn cho trẻ tự kỷ. Trẻ được dạy cách mua hàng ở tiệm, kết quả là nó gia tăng mức hữu hiệu hành vi mua hàng mà trẻ xem video còn biết tổng quát hóa kỹ năng, để áp dụng cho những cửa hàng khác không có trong video.
Nhận xét nói dùng video trình bầy kỹ năng là ta sử dụng tính chất học bằng mắt của người tự kỷ, mặt khác nhiều trẻ tự kỷ thích xem video nên khi dùng hình thức này là ta gia tăng động lực và khiến có sự chú ý hơn về lời chỉ dẫn. Kế tiếp, video cho ta cơ hội mổ xẻ và phân tích một cuộc gặp gỡ với trẻ khi chuyện đã xẩy ra rồi. Trong lúc coi video ta có thể ngưng lại để giải thích, và nếu cần lại có thể đi ngược để trở lại chỗ muốn nói; nó cũng cho phép áp dụng cách giải quyết sự việc. Cách giải quyết được nhắm tới những khiếm khuyết của người tự kỷ trong việc đối phó với chuyện xã giao, và nó dễ dàng được dàn xếp để mang vào video.
Lợi điểm khác của video là ta có thể nhuận sắc, gạt bỏ những đoạn có người trợ giúp, nhắc nhở để khi trẻ coi lại em sẽ chỉ thấy cảnh em tương tác đúng cách. Mục đích
của video là cho trẻ học từ cảnh em làm đúng, không phải cảnh làm sai, và em sẽ coi tới coi lui đoạn có em đóng kịch xuôi rót, cho trẻ cảm tưởng độc lập và thành công.
Trên đây là những phương pháp khác nhau cho gia đình và chuyên viên về việc kỹ năng giao tiếp cho trẻ tự kỷ. Điều cần nhớ là không phải mọi cách đều thích hợp cho mọi trẻ, mà người ta cần xếp đặt để bảo đảm là phương pháp được chọn sẽ thích hợp cho nhu cầu riêng biệt của trẻ. Do đó soạn chương trình để sử dụng cả ưu điểm lẫn khuyết điểm là điều quan trọng hàng đầu.
● Phương Pháp Tích Cực Ở Nhà.
○ Hãy giải thích và xem chắc con hiểu nghĩa chữ 'trò chơi, chơi' là gì. Điều quan trọng em cần biết là trong nhiều trò chơi sẽ có bên thắng và bên thua, một số lớn trẻ tự kỷ không hiểu được điều này trừ phi bạn thảo luận với em trước. Sau khi tập cho em quan sát bạn bè ở sân chơi, dạy con cách chọn trẻ nào có sở thích tương tự mà em có thể chơi, thí dụ muốn nói về túc cầu thì hãy chọn trẻ nào chơi túc cầu, thay vì chọn trẻ thích đọc sách hay thích chơi máy điện toán. Trẻ tự kỷ có thể nghĩ là ai khác cũng thích nghe điều em muốn nói trong khi thực tế khác xa.
○ Dạy con những câu để nói khi muốn chơi với ai, và tập các vai ấy với trẻ trong cả hai trường hợp là tỏ ý muốn chơi chung và được nhập bọn, hoặc bị từ chối. Nếu cần thì viết ra giấy để con có sẵn khi muốn coi lại, tuy nhiên đề nghị này không chắc hữu dụng; trẻ tự kỷ thường đã có dáng điệu lóng cóng dễ gây chú ý, nay em móc túi cầm giấy coi rồi mới hỏi bạn thì hình ảnh đó khiến em bị chú ý nhiều hơn ở sân chơi và có thể bị chọc ghẹo.
○ Khuyến khích con đi tới gặp thầy cô nếu mở lời mà không được đáp ứng, thay vì tranh luận với bạn; giải thích là tranh luận có thể khiến những lần sau khó mà chơi với bạn hơn, cũng như khi em không vui vì bị từ chối thì nên xin thầy cô tìm chỗ để dịu xuống hơn là tranh luận.
Cha mẹ cần giúp con học về tình bạn và sự thân thiết, không những tình bạn và sự thân thiết tự chúng đáng quí mà chúng còn là điều phải có, để sau này khi thành niên dẫn tới tình cảm lứa đôi lành mạnh và thành hôn.
Thiếu niên tự kỷ gặp nhiều trở ngại trong việc tạo và duy trì tình bạn. Khó khăn về cảm quan và cách liên lạc tỏ ý làm em không có bạn lúc tuổi nhỏ, sau đó hành vi khác thường và yếu kém về tình cảm thường ngăn cản không cho em dự vào những sinh hoạt với bạn đồng tuổi, ở trường cũng như ở khu phố. Phần khác đa số trẻ tự kỷ và vài trẻ có chứng Asperger không quan tâm lắm đến trẻ khác mà thích chơi một mình những trò của riêng em, theo cung cách của em; những trò này cũng như cách chơi của em khiến cho trẻ khác không chơi chung và do vậy, không cho cơ hội cũng như không cho em kinh nghiệm để tạo nên tình bạn. Do đó nếu thiếu niên tự kỷ muốn có bạn thì có nhiều điều em cần phải học và thực hành.
Em có thể hỏi tại sao cần phải tập kỹ năng để tạo tình bạn nếu em không hề muốn có bạn, không quan tâm đến ai và hài lòng với việc chơi riêng một mình, thấy không có gì cần phải thay đổi. Sống một mình thì có hại đến ai khi em thích sống như vậy ? Có vài câu trả lời cho ý này:
– Ta nên cho mình có nhiều chọn lựa. Khi có kỹ năng kết bạn, ta có thể chọn là muốn hay không muốn làm bạn với ai; nếu không có những kỹ năng này ta sẽ có ít chọn lựa, đời sống sẽ bớt phong phú hơn.
– Học và tập ở trường những kỹ năng kết bạn thì dễ hơn là học và tập sau này khi
trưởng thành ở nơi khác. Nếu thực hành thì trường và khu phố sinh sống thường là nơi cho cơ hội tốt nhất.
– Nghiên cứu thấy là kỹ năng về việc liên lạc tỏ ý và kết thân là dấu hiệu cho biết thành công ra sao nơi chỗ làm việc, mà không phải là óc thông minh. Với sinh hoạt ngày nay càng ngày càng dựa vào việc tìm kiếm và chia sẻ thông tin, kỹ năng tương tác, giao tế càng lúc càng quan trọng.
– Tài liệu cũng ghi rằng sự tương giao với người khác quan trọng cho sức khỏe và tuổi thọ, những ai sống lâu nhất là người tích cực giao tiếp.
2. Tạo Cơ Hội
Khi con bằng lòng học để có kỹ năng, cha mẹ có thể tạo cơ hội cho trẻ tập chúng và có bạn. Nhiều tình bạn nẩy nở (nhất là cho con trai) không phải do trò chuyện mà do làm chung việc với nhau. Một số phương pháp đã mang lại kết quả là:
○ Tìm những hội quán hay sinh hoạt sau giờ học mà có liên quan đến lòng si mê của thiếu niên. Dành thì giờ với ai cũng vui thích cùng những điều hay vật như mình ở tuổi này là giống như trẻ nhỏ chơi cạnh nhau. Nó cho thiếu niên cơ hội quan sát người khác và sau đó, liên kết được phần nào với họ.
○ Khuyến khích thiếu niên mời những trẻ khác cùng dự vào những sinh hoạt đặc biệt có sẵn qui củ. Thí dụ tương tác khi chơi vài bàn ping-pong ở hội quán thanh niên thì dễ hơn là hẹn bạn tới nhà chơi.
○ Khi thiếu niên mời bạn tới nhà, hãy sắp xếp cuộc chơi quanh một công việc hay sinh hoạt, như các trẻ chơi một trò chơi điện tử mới, xây nhà chòi ngoài vườn v.v.
○ Đừng quên cơ hội làm thiện nguyện. Công việc như đọc sách ở nhà trẻ hoặc chơi đàn ở trung tâm sinh hoạt cao niên cho phép thiếu niên liên kết được với người khác. Nếu có bạn cùng làm thiện nguyện với em thì hay hơn nữa.
Một khi đã có cơ hội để tương tác thì điều quan trọng là xem chắc để thiếu niên biết là có cơ hội và nắm lấy nó.
○ Xem chắc là thiếu niên biết dấu hiệu nào tỏ ra là người kia sẵn lòng kết bạn, thí dụ như nhìn vào mắt hàm ý khuyến khích, đứng cạnh, đùa giỡn, hoan nghênh, và ngỏ lời muốn giúp đỡ, nói thẳng và bầy tỏ ý kiến với nhau.
○ Xem kỹ là thiếu niên biết đáp ứng tương tự ra sao.
○ Dạy cho con biết nói thành thạo những câu mở đầu, khi nào và dùng nó ở đâu.
○ Dạy con biết những điểm chính yếu trong việc giao tiếp, chẳng hạn khi có bạn tới chơi thì biết lắng nghe bạn nói gì và muốn làm gì, cũng như không thể làm ngơ bạn và làm điều con muốn làm như bỏ mặc bạn chơi đu còn mình vào phòng chơi trên máy điện toán.
○ Giúp con phân biệt giữa việc đùa giỡn vui tánh và việc quấy nhiễu hoặc bắt nạt. Điều này khó cho người tự kỷ nên bạn có thể cần nhiều công phu và thì giờ.
○ Dạy kỹ cho con hiểu cách trò chuyện qua lại hai chiều thay vì chỉ có một chiều độc thoại.
○ Làm cho con hiểu rằng không có người bạn nào hoàn toàn cho ta hết mọi điều ta cần. Đa số chúng ta thích có bạn này trong khung cảnh này, và bạn khác trong khung cảnh khác. Điều quan trọng cần làm cho con biết là người bạn có giá trị cho dù không hòa hợp với điều ta muốn 100%.
○ Cho trẻ hiểu là không phải ai cũng trở thành bạn, đa số chúng ta có nhiều người quen mà chỉ một số ít là bạn. Điều này làm em không thất vọng cho lắm khi giao kết không thành.
3. Duy Trì Tình Bạn
Nhiều trẻ tự kỷ không hiểu được trí người khác nên không biết họ muốn hoặc cần điều gì khi kết bạn. Cha mẹ có thể chỉ dẫn con cách nuôi dưỡng tình bạn như sau:
○ Giúp thiếu niên đáp trả lại những lời mời của bạn bè khi nào có thể được.
○ Trước khi con đi chơi chung với bạn bè, giúp con nghĩ xem người bạn sẽ muốn hay không muốn làm hay ăn gì. Thực phẩm là vật cụ thể và dễ là đầu đề nói chuyện, cũng như dễ khuyến khích cho em nói. Sau buổi chơi, hỏi con là người bạn làm, nghĩ và cảm thấy gì trong lúc sinh hoạt. Nếu con không biết thì cha mẹ giúp con nối kết dữ kiện với diễn giải có thể có.
○ Nếu cha mẹ biết điều gì phấn khởi về người bạn của trẻ hay gia đình của thiếu niên này và là điều ai cũng biết thì nói cho con cũng biết, và tập với con cách nói về chuyện này với người bạn.
○ Nếu người bạn đang gặp cảnh khó khăn và đây là hiểu biết chung, hãy chỉ dẫn cho con nên nói hay không nên nói điều chi. Thiếu niên tự kỷ thường không biết lựa lời mà đi thẳng vào chuyện làm người bạn khó xử khi họ không muốn đề cập tới chuyện. Dạy cho trẻ biết là em có thể giúp người bạn bằng cách tỏ ra ân cần nhiều hơn, thay vì hỏi những câu thẳng thừng về chuyện; làm như vậy chẳng những giúp con duy trì tình thân mà đồng thời cho con hiểu thế nào là thông cảm
○ Khi chính em gặp khó khăn, giúp em quyết định là nên hoặc không nên cho bạn bè hay, và nên chia sẻ như thế nào.
Ngoài ra bạn bè đúng nghĩa còn là người vẫn quí mến ta dù không đồng ý, nên sẽ có lúc đôi bên sẽ có xung đột tư tưởng. Đối phó với xung đột là chuyện khó cho người bình thường, và lại càng khó hơn nữa cho người tự kỷ; ngoài những khó khăn vốn dĩ của chứng này, em còn gặp trở ngại do cách suy nghĩ thẳng băng thiếu uyển chuyển, không biết những điểm tế nhị trong cách giao tế. Dưới đây là những góp ý thêm vào kinh nghiệm mà cha mẹ có sẵn để dạy con.
○ Giải thích việc không đồng ý là sao, và tăng cường ý niệm có lý là ta vẫn có thể là bạn với nhau cho dù bất đồng tư tưởng.
○ Với ý niệm không có lý thì dùng chứng cớ để thuyết phục. Giả dụ con nói rằng tình bạn chấm dứt khi đôi bên có tranh luận, hãy nói với con về chuyện gì đã xẩy ra khi con bất đồng ý kiến với người khác trong quá khứ. Có gì cho thấy là người kia vì vậy không hề muốn giữ tình thân với trẻ nữa ? Có gì cho thấy là họ vẫn còn là bạn với thiếu niên ?
○ Lắng nghe con diễn giải chuyện gì xẩy ra và khoan bầy tỏ ý bạn. Gợi ý để con hiểu càng nhiều càng tốt về chuyện và hiểu mình nghĩ, cảm thấy gì. Khi mọi việc rõ ràng và con tỏ ý sẵn sàng nghe ý kiến khác, chừng đó hãy trưng ra cái nhìn của bạn.
○ Dạy con cách làm sáng tỏ và chữa lời bằng cách đặt câu: 'Mẹ muốn nói (A) hay (B) ?' và 'Con không hiểu, con tưởng mẹ nói là ...'
○ Giúp con học cách thành thật xin lỗi, khi thích hợp.
○ Tập ở nhà và ở trường cảnh 'đồng ý là hai bên suy nghĩ khác nhau'. Hãy làm
gương cho chủ trương rằng người ta có thể không đồng ý với nhau mà vẫn tiếp tục là bạn của nhau. Đây là điểm quan trọng trong việc dạy thiếu niên cách đối phó với xung đột.
○ Dạy con những cách như ngưng câu chuyện một lát khi có cảm xúc mạnh vì xung đột.
○ Làm gương và tăng cường việc buông bỏ sự tranh chấp khi đã giải quyết xong. Cha mẹ có thể đưa ra hình ảnh là đặt việc tranh chấp vào hộp và cất lên kệ cao. Khi thiếu niên đề cập trở lại chuyện thì nhắc cho con nhớ là sự việc đã 'cất lên kệ'. Mục đích nhắm tới là tập cho con dùng hình ảnh đó để tự dẫn dụ và không cần nói thành lời.
Thiếu niên tự kỷ có thể muốn hay không muốn có tình thân sâu đậm với bạn bè, nhưng cho con vài ý niệm về làm gì hay không làm gì là điều hữu ích.
○ Kỹ năng quan trọng nhất trong tình bạn thân thiết là lắng nghe, tức lắng nghe mà không ngắt lời và kể kinh nghiệm của mình, tìm cách giải quyết hay góp ý. Thiếu niên có thể không biết phải làm gì khi nghe chuyện không vui, khó nghĩ; hãy nhắc nhở rằng con không phải giải quyết bất cứ việc chi. Chỉ cần lắng nghe là đủ.
○ Một trong những cách dạy về việc lắng nghe là cha mẹ hãy làm gương.
○ Bạn thân cũng chấp nhận được sự lặng thinh. Hãy giúp thiếu niên học rằng không phải lúc nào cũng cần phải có lời nói, đôi khi ở cạnh nhau là đủ, cùng làm việc mà hai bên ưa thích.
○ Khi khác có thể bạn bè không có liên lạc nhưng tình thân vẫn còn. Nếu con biết là người bạn bận rộn vì việc nhà, việc học và không có tin trong nhiều ngày, em có thể để lại lời trong máy nhắn câu thăm hỏi, cho biết em quan tâm và mong tin bạn.
Người tự kỷ có khi không muốn có bạn, thấy tình bạn không có lợi chi. Nếu cha mẹ chỉ dẫn mà không mang lại kết quả gì về việc kết bạn, ta không nên chán nản vì mục đích của ta là trang bị cho thiếu niên những kỹ năng làm bạn, con có thể không thích có bạn vào lúc này nhưng các chỉ dẫn cho con ý niệm, và không ai trong chúng ta muốn con bị cô đơn.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cảm ơn những nhận xét đóng góp chân tình