Lịch sử máy giặt

Ngày 9/8/1910, bằng sáng chế dành cho máy giặt chạy bằng điện đã được cấp cho Alva J. Fisher (1862–1947) một kỹ sư ở Chicago, bang Illinois (Mỹ).

Máy giặt đầu tiên xuất hiện từ thế kỷ XVII. Tất nhiên, nó không có chút gì giống với máy giặt mà chúng ta sử dụng ngày nay, ngoại trừ cùng một mục đích, giặt quần áo dơ. Chính xác hơn, các bằng sáng chế đầu tiên thuộc về máy giặt và vắt ("Washing and Wringing Machines") được chế tạo vào năm 1691, tại Anh. Ngoài ra, bản thiết kế của loại máy giặt này lần đầu tiên xuất hiện trong năm 1752 trong một tạp chí của Anh “The Gentlemen's Magazine”.

Máy giặt thời kỳ 1860 (Ảnh: Chaloner Woods)
Người Đức cũng bắt tay vào chế tạo máy giặt, thông qua các thiết kế máy giặt đầu tiên ra đời vào năm 1767. Trong khi hơn một thập kỷ sau, năm 1782, người Anh mới có bằng sáng chế cho một loại máy giặt hình ống quay liên tục, trong đó bao gồm một lồng với các thanh gỗ và một tay cầm.

Người Mỹ bắt đầu đầu tư nghiên cứu chế tạo máy giặt. Từ năm 1797, bằng sáng chế đầu tiên đã được cấp cho một loại máy giặt gọi là “Clothes Washing”. Tuy nhiên, cơ quan cấp bằng sáng chế sau đó đã bị cháy, nên người ta không có những bản mô tả về thiết bị này.

Máy giặt ngày nay
Các mẫu quảng cáo và những tranh luận sớm nhất về máy giặt bằng điện xuất hiện vào năm 1904 tại Mỹ. Louis Goldenberg – một kỹ sư sinh sống tại New Brunswick, New Jersey đã phát minh ra máy giặt bằng điện vào khoảng cuối những năm 1800 đến đầu thập niên 1900. Vào thời điểm đó, ông làm việc cho Công ty Ford Motor, và tất cả các sáng chế ông đã tạo ra trong khi làm việc cho Ford theo hợp đồng thuộc về Ford. Nhưng cho đến 1908, Thor mới được công nhận là máy giặt chạy bằng điện đầu tiên.

Được Công ty Máy Hurley của Chicago, Illinois, giới thiệu vào năm 1908, máy giặt Thor được cấp bằng sáng chế số 966.677 vào ngày ngày 9/8/1910.

Thor là một loại máy giặt hình ống với một bồn giặt mạ kẽm và một động cơ điện, và gắn với một hộp số quay ngược tự động để đảm bảo quần áo không bị nén chặt thành một khối rắn. Đây là tiền thân của máy giặt hiện đại.

Sưu tầm

Lịch sử phát triển kỹ thuật lạnh

Đã mấy ngàn năm trôi qua, từ khi con người còn chưa đạt được những thành tựu lớn về khoa học, chúng ta đã biết sử dụng lửa vào việc sưởi ấm vào mùa đông và cũng biết sử dụng băng, tuyết vào việc giữ gìn, bảo quản thực phẩm. Cách đây khoảng hơn 2000 năm người Ấn Độ và Trung Quốc đã biết cách trộn muối với nước hoặc nước đá để tạo ra nhiệt độ thấp hơn.

Vào năm 1761-1764, giáo sư Black đã tìm ra nhiệt ẩn hoá hơi và nhiệt ẩn nóng chảy. Từ đó mà con người đã biết làm lạnh bằng cách cho bay hơi chất lỏng ở áp suất thấp.

Đến thế kỉ XIX, thì kỹ thuật lạnh mới thật sự phát triển mạnh mẽ. Năm 1810, máy lạnh hấp thụ chu kì với cặp môi chất H2O/H2SO4 đầu tiên do Leslie (Pháp) đưa ra. Đến giữa thế kỉ XIX nó được phát triển rầm rộ nhờ vào kĩ sư Carré (Pháp) với hàng loạt bằng phát minh về máy lạnh hấp thụ chu kì và liên tục với các cặp môi chất khác nhau.

Năm 1873, Van der Waals công bố phương trình trạng thái, cùng lúc đó nhà bác học Pháp là Charler Tellier trình bày luận án ở Viện hàn lâm Pháp về việc dùng lạnh để bảo quản thịt, ông là người được cả thế giới xem như là ông tổ ngành lạnh.

Năm 1898, Dewar hoá lỏng được H2 và Linde hoá lỏng O2, N2 và tách bằng chưng cất. Đến cuối thế kỉ XIX, với hàng loạt cải tiến của Linde với việc sử dụng môi chất NH3 cho máy lạnh nén hơi, làm cho máy lạnh nén hơi được sử dụng phổ biến ở nhiều nơi.

Năm 1904: Mollier xây dựng đồ thị i – s và logP – i.

Năm 1930, sự kiện quan trọng phát triển kĩ thuật lạnh là việc sản xuất và ứng dụng môi chất lạnh Freon ở Mĩ. Môi chất lạnh Freon là hợp chất hữu cơ hydro cacbua no hoặc không no như metal (CH4) hoặc etan (C2H6)…, được thay thế một phần hoặc toàn bộ các nguyên tử hydro bằng các nguyên tử halogen như Clo (Cl), Flo (F) hoặc Brom (Br).

Nể dâm

Giữa buổi sáng ở một làng quê, không gian tĩnh mịch, bởi mọi người đang mải mê công việc đồng áng. Những đứa trẻ hội tụ đến trường. Làng chỉ còn lại các ông bà già đã hết tuổi lao động cùng mấy cháu nhỏ chưa đi mẫu giáo và vài ba chị ở cữ.

Bỗng ở đầu làng có tiếng hô hoán:

- Bắt lấy nó! Bắt nó lại!

Nghe ra đó là tiếng của anh con trai cả của bà Mãn, nhà đầu làng. Ai nấy đều nghĩ: có trộm. Mọi người tức tốc chạy đến hòng bủa vây bắt kẻ gian. Đến nơi, kẻ gian đã bị mấy anh em con nhà bà Mãn trói cánh khỉ vào cột chăng dây phơi quần áo trước sân nhà.

- Trời ạ, ông Lang! Mọi người ngạc nhiên thốt lên.

- Làm sao đến nông nỗi này? Một người rất thân quen với ông lang hỏi.

Ông gằm mặt xuống không nói không rằng. Dân làng ở đây chẳng biết chính xác quê ông ở đâu, tên thật ông là gì, ông bao nhiêu tuổi. Mọi người cứ quen gọi: ông Lang, vì ông làm nghề bắt mạch bốc thuốc. Có người khen, cũng có người chê bai về tay nghề chẩn đoán bệnh và bốc thuốc chữa trị của ông. Ông đi khắp mọi nơi, nay đây, mai đó. Ông qua lại cái làng này đã hơn chục năm nay. Ông cũng được tiếng là người tử tế vì ông chẳng nhặt nhãnh của ai từ mũi kim đến sợi chỉ. Nhiều người quý ông, chẳng có ai phàn nàn hoặc thù ghét ông. Vậy mà hôm nay ông bị mấy anh em con nhà bà Mãn này trói gô lại, hẳn là có chuyện tày trời. Mọi người kéo đến mỗi lúc một đông. Rồi cả trưởng thôn cũng có mặt vì sự việc xảy ra trong địa bàn mình quản lý. Trưởng thôn sốt sắng hỏi anh con trai cả bà Mãn:

- Có việc gì mà các cậu tuỳ tiện bắt, trói người?

- Ông này hiếp mẹ tôi. Anh em chúng tôi rình bắt quả tang đang hành nghề trong nhà bếp. Tôi phải trói lại để yêu cầu chính quyền xử lý!

Với cương vị trưởng thôn đã lâu năm, ông nắm rõ hoàn cảnh từng nhà ở cái thôn này. Bà Mãn năm nay đã gần sáu mươi tuổi, người bà trông đẫy đà, phốp pháp. Bà goá chồng đã hơn mười năm nay, là người đảm đang biết lo toan thu vén. Các con bà nay đã trưởng thành, cháu nội, ngoại đông đủ. Gần đây bà thường hay kêu đau đầu, mỏi lưng, huyết áp gì đó nên ông Lang thường lui tới bắt mạch, bốc thuốc cho bà. “Lửa gần rơm lâu ngày bén”, con người ta khi nhàn rỗi thảnh thơi nên “phát bệnh” nhu cầu cũng là việc dễ hiểu. Mấy cậu con trai bà quá cố chấp, chỉ biết mình mà không hiểu cho người khác. Làm gì có chuyện hiếp dâm ở đây! Là chỗ thân quen với ông Lang, với lại cái việc bất tiện này tốt nhất là đẩy cho chính quyền xã xử lý. Nghĩ rồi ông gọi anh con trai cả bà Mãn nói:

- Việc này phải đi gọi chính quyền uỷ ban xã đến giải quyết. Cho người đi gọi đi!

Tức tốc có người đi gọi, nửa tiếng sau quay về thông báo:

- Hôm nay chủ nhật, anh phó chủ tịch kiêm trưởng công an đi vắng. Ông chủ tịch, nhà ở xa đến đấy rồi về mất cả tiếng, mà chắc gì ông ở nhà!

- Đi gọi bí thư chi bộ đảng ra đây! Trưởng thôn yêu cầu.

Lúc sau người bí thư chi bộ đảng của xã (xã này chưa có đủ số lượng đảng viên để thành lập đảng uỷ) đến. Sau khi nghe trưởng thôn báo cáo, ông hỏi sao không gọi chính quyền xã. Mọi người nói chính quyền vắng nhà. Ông lưỡng lự. Người trưởng thôn khẩn khoản yêu cầu:

- Việc này phải xử lý hành chính. Chỉ có cấp xã mới đủ thẩm quyền. Bác là người lãnh đạo tối cao ở cái xã này bác cứ cho ý kiến là xong. Em là em cứ theo bác mà làm. Theo bác là theo đảng, đảng bảo sao em làm vậy. Em nói thế có phải không bác?

Người bí thư mặt biến sắc, từ đen sạm chuyển sang đỏ ửng vì lâu nay mới có người thán phục mình. Mũi ông phồng lên. Ông có cái mũi thông thống nhìn sâu suốt đến bên trong. Ông cố lên gân để cái mũi nó khỏi phập phồng, nhưng nó cứ phập phồng. Ông càng lên gân, nó lại càng phập phồng.

- Điều đó là rõ. Người bí thư đáp.

- Gọi nạn nhân ra đây! Người bí thư yêu cầu.

Lúc này mọi người mới nghĩ đến “nạn nhân”. Mà lạ thật, chẳng biết “nạn nhân” biến đâu! Người nhà của “nạn nhân” bắt đầu toả ra đi tìm. Lát sau người nhà lôi xoành xoạch nạn nhân đến trình ông bí thư chi bộ đảng.

Cuộc thẩm vấn được bắt đầu tiến hành ngay tại hiện trường. Người bí thư hỏi “nạn nhân”. Trưởng thôn ghi biên bản.

- Chuyện gì xảy ra thế hở bà?

- Dạo này tôi mệt mỏi, bác Lang thường hay đến nhà bắt mạch cho tôi, nghi là huyết áp tăng. Thế rồi... Thế rồi cứ mỗi lần khám bác ấy cứ bắt chỗ này, bắt chỗ kia rồi bác ấy làm cái việc ấy... “Nạn nhân” kể lại.

- Sao bà không chống cự lại?

- Lúc đó tôi bủn rủn chân tay nên không biết gì nữa.

- Hai người quan hệ với nhau mấy lần rồi?

- Cũng vài lần rồi, ai mà nhớ được! Mà nhớ làm gì cái việc ấy bác!

- Sao phải xuống bếp, giải chiếu hoa để khám?

- Mấy lần đầu khám ở nhà trên. Về sau tôi nghĩ lại... nên xuống bếp.

- Vậy là hai người thông dâm chứ không phải hiếp dâm, cưỡng dâm, đúng không?

- Thực ra không phải là hiếp, cưỡng mà cũng không phải thông đồng, mà tôi nể bác ấy lắm nên mới cho bác ấy một lần. Thế rồi thành quen, bác ấy thỉnh thoảng lại đến, tôi không biết làm thế nào được.

Người bí thư quay sang hỏi ông thầy Lang:

- Ông quan hệ với bà Mãn từ khi nào?

- Từ đầu năm.

- Ông kể chi tiết lần đầu ông làm thế nào để cưỡng dâm bà Mãn?

- Tất cả bà ấy đã nói hết rồi, tôi không có gì nói thêm.

- Ông có thấy việc làm của ông là vi phạm đạo đức, vi phạm thuần phong mỹ tục, vi phạm phong tục, tập quán của dân tộc không?

- Tôi biết tôi sai. Các bác xử thế nào tôi chịu thế.

- Ý kiến của gia đình thế nào? Người bí thư quay sang hỏi anh con trai cả của bà Mãn.

- Ông đã làm xúi quẩy nhà tôi. Bây giờ ông phải nộp phạt để nhà tôi lấy thầy đến cúng cải xúi, và ông phải hứa từ giờ không được bén mảng đến nhà tôi, không được dụ dỗ mẹ tôi theo ông làm cái trò xấu xa thế nữa.

- Vâng, tôi xin chịu mọi phí tổn để cúng bái, và từ nay tôi xin chừa.

- Lễ cúng cần những gì gia đình cứ nói. Người bí thư đề nghị.

- Một con lợn trên dưới ba mươi ký để lễ tổ tiên, bốn con gà từ cân rưỡi trở lên, một con đặt bàn tổ, một con đặt thổ công, một con đặt bếp, còn một con đặt bàn thầy. Còn lại gạo nếp, gạo tẻ, rượu, tiền đưa thầy, tiền rau canh... Tất tần tật lấy hai triệu.

- Gia đình đề nghị như vậy, ông thấy thế nào? Người bí thư hỏi.

- Gia đình yêu cầu thế nào thì tôi xin nghe theo, chỉ có điều hiện nay tôi không đủ tiền nộp phạt.

- Hiện ông có bao nhiêu?

- Có một triệu, tôi xin nộp phạt một triệu, còn lại tôi xin khất.

- Ông có thể đi vay người quen ở làng này để nộp phạt được không? Người bí thư đưa ra giải pháp.

- Tôi đang lâm nạn, biết vay ai bây giờ! Mà ai người ta cho vay!

- Gia đình thấy thế nao? Cho ông khất nợ được không?

- Bác đứng ra bảo lãnh, gia đình chấp nhận.

- Bây giờ thế này: gia đình cứ đứng ra lo việc cúng bái, quét nhà, quét cửa cho sạch sẽ, mát mẻ đi. Tôi đứng ra bảo lãnh cho ông Lang về số tiền còn thiếu cho gia đình, được chưa?

- Vâng, bác là bí thư ở cái xã này, bác nói sao chúng cháu xin nghe. Người con trai cả bà Mãn đồng ý.

- Cởi trói cho người ta.

- Vâng.

Trưởng thôn thông qua biên bản, giọng đọc ấp úng: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Độc lập - Tự do - Hạnh phúc. Biên bản giải quyết vụ cưỡng dâm bà Nông Thị Mãn...

Ông Lang phản đối:

- Tôi không cưỡng dâm!

- Cưỡng dâm không phải là cưỡng bức mà phải hiểu là miễn cưỡng, hiểu chưa? Người bí thư đảng giải thích.

- Tôi không cưỡng ai, nên tôi không nhất trí.

- Vậy ghi là thông dâm được chưa? Người bí thư mau lẹ chuyển đổi ngôn từ.

- Tôi đã nói là không phải thông, mà cũng không phải cưỡng, mà chính là tôi nể bác ấy lắm nên mới để cho bác ấy một lần, không ngờ nó quen đi nên mới ra nông nỗi này. Bà Mãn phản đối.

- Vậy thì ghi là nể dâm, mọi người thấy thế nào?

Không ai phát biểu gì. Người bí thư kết luận:

- Im lặng tức là đồng ý. Vậy ghi là biên bản giải quyết vụ nể dâm, được chưa?

Trưởng thôn thông qua biên bản rồi đưa mọi người ký. Người con trai cả của gia đình “nạn nhân” thắc mắc:

- Biên bản có đại diện đảng, chính quyền cấp xã, tại sao không đóng dấu?

Người bí thư chi bộ đảng tỏ ra lúng túng. Ông biết rõ đóng dấu chi bộ đảng vào đây không những sai nguyên tắc mà còn làm trò hề cho thiên hạ cười thối mũi. Ngẫm một lát rồi ông cũng tìm được lối ra. Ông phân tích:

- Vì hai người không phải là đảng viên, chỉ là quần chúng thường nên không thể cộp dấu của chi bộ đảng vào đây được. Nó sai nguyên tắc của đảng. Việc hôm nay tôi dám đứng ra giải quyết là thể hiện tính linh động lắm rồi, mong anh hiểu cho. Xét cho cùng chúng ta đã hoà giải được, hai bên vui vẻ thống nhất được với nhau. Đó là việc quan trọng nhất, chứ còn dấu má nó là cái gì đâu!

Biên bản được thông qua nhanh chóng. Riêng khoản tiền nộp phạt còn thiếu, phía gia đình yêu cầu phải ghi giấy khất nợ và có xác nhận của bí thư chi bộ đảng. Bí thư phán quyết:

- Lập một biên bản riêng về khoản nợ của ông Lang, mỗi bên giữ một bản.

Biên bản lập xong đọc mọi người nghe. Bí thư lại phán:

- Việc này xã đã ra tay nên người gây hậu quả phải nộp cho xã hai trăm ngàn tiền phạt vi phạm hành chính.

- Tôi chỉ có một triệu đó thôi, còn lại xin khất các bác. Ông Lang khẩn khoản.

- Một triệu này phải nộp hết cho gia đình để còn lo ngay việc cúng bái yên trạch nhà cửa. Người con trai cả của bà Mãn yêu cầu.

- Trong các lợi ích thì lợi ích nhà nước, lợi ích tập thể phải được ưu tiên hàng đầu. Người bí thư chi bộ đảng quả quyết.

Biên bản được sửa theo hướng chỉ đạo của người lãnh đạo đảng, theo đó ông Lang đã nộp phạt cho gia đình tám trăm ngàn, còn thiếu một triệu hai trăm ngàn hẹn đúng một tuần phải nộp đủ. Hai trăm ngàn tiền phạt hành chính, người nộp phạt tự nguyện nộp không cần quyết định xử phạt, cũng khỏi cần lập biên bản để giảm thiểu các thủ tục hành chính phiền hà. Cuộc hoà giải kết thúc, mọi người kéo nhau ra về, để mặc mọi người bàn tán đằng sau.

Mấy hôm sau cuộc họp ban chi uỷ được triệu tập. Cuộc họp lần này rất quan trọng vì có những nội dung: sơ kết công tác phát triển kinh tế xã hội sáu tháng đầu năm, mục tiêu, kế hoạch phát triển sáu tháng cuối năm, đánh giá công tác xây dựng đảng sáu tháng đầu năm, phương hướng nhiệm vụ sáu tháng cuối năm, phân tích chất lượng đảng viên sáu tháng đầu năm... Tất thảy ban chi uỷ có bảy người, có mặt đông đủ.

Vào cuối buổi chiều cuộc họp sắp kết thúc, các nội dung đã hòm hòm, bí thư lên thông báo về tài chính công khai của đảng, trong đó có việc đôn đốc thu nộp đảng phí, các khoản trích lại và nộp lên trên...

Cuối cùng bí thư thông báo:

- Bữa ăn trưa hôm nay do có nguồn thu khác của đảng, nên không dùng đến kinh phí chi thường xuyên của chi bộ ta. Số là hôm vừa rồi tôi đã đứng ra giải quyết vụ quan hệ nể dâm giữa ông Lang và bà Mãn ở địa bàn xã ta. Tôi quyết định thu xử phạt hành chính hai trăm ngàn đồng. Toàn bộ số tiền đó đã chi hết cho bữa ăn trưa hôm nay. Vậy thông báo công khai tài chính cho các đồng chí cùng biết.

Mọi người trố mắt nhìn nhau. Mấy người chạy vội ra ngoài. Bí thư chi bộ đảng thấy lạ hỏi:

- Các đồng chí làm sao vậy? Đang họp sao lại chạy ra ngoài?

- Thưa, chúng tôi buồn nôn!

Vi Đức Hồi

Vô địch bóng đá ( world cup )


Tổng cộng, đã có 76 quốc gia ít nhất một lần được tham dự một vòng chung kết World Cup.Trong số này, 8 quốc gia đã từng đăng quang một kỳ World Cup . Với 5 chức vô địch, Brasil là đội bóng giàu thành tích nhất thế giới, đồng thời là đội bóng duy nhất cho đến nay chưa vắng mặt tại bất kỳ vòng chung kết nào.Ý (1934 và 1938) cùng Brazil (1958 và 1962) là hai đội bóng duy nhất từng bảo vệ thành công chức vô địch của mình. Brasil cùng Đức là hai đội từng chơi nhiều trận chung kết nhất, cùng 7 lần, ngoài ra Đức cũng giữ kỷ lục về số lần lọt vào tới vòng bán kết, với 12 lần.

Ngôn ngữ và trí tuệ

Gần đây, do kết qủa nghiên cứu và tìm hiểu về ngôn ngữ của một vài đồng hương hằng quan tâm đến tương lai của đất nước, đã xuất hiện và thành hình một nhóm cổ vũ cho việc thay đổi cách viết chữ Việt hiện thời. Chủ trương thay đổi của nhóm là đề nghị viết liền nhau những từ kép, có hai chữ hay nhiều hơn, và cần phải đi chung với nhau mới đủ nghĩa. Thí dụ như: lang thang, đơn âm, đồng ý, đại danh từ, v.v... Một trang mạng quy mô với cái tên cũng khá đặc biệt là VNY2K http://www.vny2k.com/VNY2K_Tintuc_Thoisu_Vanhoa_Vietnam.htm, đã dành riêng một khung nhỏ trên trang để phổ biến ý kiến, cùng kêu gọi tiếp tay ủng hộ của mọi người.

Riêng đối với trường hợp của người viết thì từ lâu vẫn thường tự hỏi: "Tại sao đa số các ngôn ngữ trên thế giới đều đa âm (polysyllable), trong khi chỉ có một số rất ít là có nhiều đơn âm (monosyllable), trong đó phải nhìn nhận tiếng Việt có nhiều nhất?". Và rồi như một chuỗi phản ứng dây chuyền, thắc mắc này lại đưa đến suy tư khác: "Tại sao các nước còn dùng ngôn ngữ có nhiều đơn âm như ở vùng Đông Nam Á lại là những nước nghèo nhất trên thế giới? Có cái gì liên hệ thật sự giữa ngôn ngữ và chậm tiến?"

Do từ tất cả những gì vừa nêu ra, cộng thêm vào là "nguyện vọng" muốn tìm cho ra câu trả lời, nên người viết đã bỏ thì giờ để tìm hiểu vấn đề. Nhờ vậy, kết quả sau một thời gian nghiên cứu, nhất là mới đây tình cờ tiếp xúc được với những vị chủ trương trang mạng nói trên, thì hình như người viết đã thấy rõ có sự liên hệ gián tiếp giữa "ngôn ngữ và trí tuệ", như sẽ được trình bày trong bài viết này. Dù sao, với tinh thần tôn trọng sự thật, thiển nghĩ những ý tưởng và con số phỏng chừng đưa ra trong bài có thể sẽ không chính xác, và cần được kiểm chứng lại bởi các chuyên gia có đầy đủ khả năng và phương tiện hơn, về các ngành nghề có liên hệ đến y khoa, tâm sinh lý, ngôn ngữ học, v.v...

Sau đây là tóm lược những ý chính trong bài khảo luận này.


Khái niệm về trí tuệ

Có lẽ trong quá trình tìm hiểu về con người, tất cả các nhà nghiên cứu trên thế giới đều đưa ra một câu hỏi chung: trí tuệ của con người là gì? Câu trả lời được chấp nhận bởi đa số, nghĩa là không bị phản đối nhiều, tuy có vẻ hơi thiên về triết lý: "Trí tuệ là khả năng của sinh vật con người duy nhất trên trái đất này, có thể tự khám phá và tìm hiểu về chính mình". Chẳng hạn như con khỉ không hề biết rõ nó là ai, mà chỉ biết nó khác với con người hay các loài thú vật khác; Và con khỉ cũng chẳng biết được con người hay con rắn khôn hơn nó(?), nên dĩ nhiên là nó sợ cả hai đối tượng như nhau, tùy theo hoàn cảnh! Trong khi đó thì con người biết được có thể có các giống vật khác ngoài vũ trụ thông minh hơn mình, hay ít nhất là tin có các Đấng thiêng liêng như Thượng đế tài giỏi quyền phép hơn!

Phương tiện cần thiết của trí tuệ chính là sự thông minh, hay nói cách khác, trí tuệ gần như là sản phẩm của sự thông minh, vì nếu không có thông minh tối thiểu nào đó thì trí tuệ cũng coi như bỏđi. Nhưng thông minh là gì? Mỗi người trong chúng ta lại có câu trả lời khác nhau, tùy theo sở học và quan niệm cá nhân. Có quan niệm cho người thông minh là người hiểu biết được nhiều chuyện hoặc là người có khả năng giải quyết đa số các vấn đề khó khăn; hay là người cótài phát minh sáng chế ra những điều mới lạ v.v... Tất cả các câu trả lời trên đều đúng, nhưng vì đúng quá nhiều, nên chưa có câu trả lời nào được coi là hoàn toàn. Tuy vậy, trong việc đi tìm một câu trả lời tổng quát, các khoa học gia cùng nhìn nhận có một mẫu số chung duy nhất của sự thông minh: Đó là trí nhớ.

Theo như phân loại của các chuyên gia, có tất cả ba loại trí nhớ. Thứ nhất là trí nhớ sinh hoạt (working memory), dùng ngay trong các sinh hoạt thường ngày như nói chuyện hay làm việc. Thí dụ như dùng để nghe giảng bài học hay để nhớ tên khách hàng trong lúc mua bán, và còn có tên khác rất quen thuộc là trí nhớ tạm thời hay ngắn hạn (short-term memory). Loại thứ hai là trí nhớ quy nạp (declarative memory), như cây chuối sau vườn nhà lúc còn bé, hay những bài học vỡ lòng. Đây là loại trínhớ dài hạn, còn được gọi là ký ức (long-term memory), rất quan trọng cho sự thông minh, được dùng rất nhiều trong lúc suy nghĩ, tính toán để quyết định làm gì, hay làm bằng cách nào. Sau cùng là trí nhớ thường trực (procedural memory), dùng để nhớ những động tác hay hành động có tính cách lập lại nhiều lần, và đôi khi có tác dụng gần giống như tính phản xạ tự nhiên. Thí dụ, như đi băng ngang qua đường, chúng ta tự động nhớ là phải nhìn cả hai bên trái và phải; hoặc đưa tay lên chống đỡ gạt đi nếu có vật lạ xâm phạm vào cơ thể.

Trước khi bắt đầu đi sâu vào chi tiết, người viết cũng xin xác định cho rõ để tránh sự hiểu nhầm, nếu có: trí nhớ chỉ mới là điều kiện "cần thiết", nhưng "chưa đủ" để bảo đảm có sự thông minh hay không. Nói cách khác, người thông minh cần phải có trí nhớ tốt, nhưng người có trí nhớ tốt chưa hẳn là người thông minh!

Vận hành của nghe và thấy trong não bộ

Sự thông minh nào bao giờ cũng phải cần có thời gian để học tập hay huấn luyện. Không hề có cái chuyện gọi là "Thông minh vốn sẵn tính trời" nào cả. Đó chỉ là cách nói bóng gió của văn chương thi phú mà thôi. Còn như nếu hiểu "tính trời" theo thực tế, thì chỉ có vấn đề thuộc về di truyền học. Nghĩa là cơ cấu não bộ của những đứa bé mới sinh ra đời tùy thuộc vào sự di truyền từ đời trước khá nhiều, và chắc chắn là không giống nhau về "phẩm" cũng như "lượng". Nhưng dù con người sinh ra như thế nào thì cũng cầncó sự giáo dục và huấn luyện mới có được trí thông minh, và dĩ nhiên bằng phương pháp nào thì cũng phải qua hai cơphận chính là mắt thấy và tai nghe. Xin bắt đầu bằng "nghe" trước:

Ấm thanh từ màng nhĩ sẽ được chuyển vào "vùng thu âm sơ khởi" (primary auditory area, số 1), tại đây quyết định giữ lại tín hiệu nào cần và không cần. Tất cả tín hiệu trong vùng số 1 nói trên chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn, và sẽ mất đi sau thời hạn khoảng chừng hai giây, nếu không được xử dụng sau đó.

Tiếp theo, các tín hiệu sẽ được chuyển vào trung tâm xử lý, còn gọi là trung tâm Wernicke (số 2). Ngay tại đây tín hiệu sẽ được xử lý và đổi qua ngôn ngữ riêng của não bộ, một hình thức ngôn ngữ có thể phỏng đoán tương tự như dạng mã số (digital coding) của máy vi tính, tuy chưa có ai biết rõ như thế nào.

Sau khi xử lý xong, biết phải làm gì rồi, thì tín hiệu mã số sẽ được chuyển qua vùng Broca (số 3), coi như chỗ phát xuất mệnh lệnh cho vùng cơ năng (motor area) (số 4), rồi từ đó sẽ truyền lệnh chi tiết ra cho giác quan, hay chân tay để thi hành mệnh lệnh. Đồng thời, cũng do từ quyết định của trung tâm xử lý, mã số đó cũng có thể được sao chép và lưu giữ tạm thời trong các vùng não xung quanh (Parietal lobes), hay chuyển lên vùng thùy não (Frontal lobes) đóng vai trò bộ nhớ thường trực, ở những vị trí của tế bào nhớ còn trống chỗ gần nhất.

Sau một vài giờ hay vài ngày, các mã số mà bây giờ có thể gọi là ký ức (hay trí nhớ) sẽ bị mất dần theo thời gian nếu cường độ quá yếu. Ngược lại sẽ giữ rất lâu, nếu cường độ vẫn còn rất mạnh do chủ nhân vô tình hay cố ý ghi nhớ "suốt đời". Nên nhắc thêm đây, khi muốn nhớ lâu một vấn đề gì, chúng ta thường ôn lại hay nghĩ tới nó nhiều lần. Chính nhờ ôn lại nhiều lần như vậy đã làm tăng cường độ của mã số trong bộ nhớ, giống như ta dùng bút vẽ tô đi tô lại nhiều lần để làm cho nét vẽ đậm ra. Trường hợp vô tình là do một biến cố quan trọng nào đó xảy ra ngoài ý muốn. Giả sử trường hợp bộ nhớ không còn chỗ nào trống, thì các tín hiệu mã số vào sau sẽ dùng luật thiên nhiên "mạnh được yếu thua", chiếm đóng và dĩ nhiên là xóa đi mã số cũ, giống như việc thu chồng lên hay xóa đi băng nhạc cũ.
Tương tự như trên cho hình ảnh hay thị giác, bắt đầu bằng những tín hiệu hình ảnh từ võng mô của mắt, được chuyển đến "vùng thu hình sơ khởi" (Primary visual area) nằm phía sau ngay trên ót (số 5), và được chọn lọc trước khi đưa qua cho vùng "Thông dịch" (người viết gọi tên theo nhiệm vụ, tên Y khoa là Angular gyrus, số 6). Vùng này có nhiệm vụ đặc biệt giống như bộ từ điển là đổi các tín hiệu hình ảnh ra thành mã số của ngôn ngữ hay tiếng nói. Đây là chi tiết rất quan trọng của ngôn ngữ mà chúng ta ít để ý: Tất cả các hình ảnh và ý tưởng đều phải được chuyển qua dạng mã số tín hiệu của ngôn ngữ, trước khi được xử lý! Thí dụ, khi nhìn thấy "cái máy bay" trên trời, thì tín hiệu hình ảnh đó sẽ được chuyển vào vùng nói trên, và lập tức sẽ được thông dịch cho ra mã số của âm thanh tiếng nói và kế tiếp là hàng chữ "cái máy bay" trong đầu, trước khi chuyển qua cho vùng Wernicke (số 2) xử lý.

Tóm lại, ký ức hay trí nhớ, dù là từ hình ảnh, âm thanh hay mùi hương thơm v.v. sẽ được giữ lại và để dành đâu đó trong não bộ dưới dạng chính là mã số của ngôn ngữ. Trung tâm Wernicke (số 2) đóng vai trò chủ chốt để xử lý các mã số ngôn ngữ đó, cũng như quyết định lưu giữ lâu dài hay bỏ qua cho quên và tự xóa đi. Theo tài liệu tham khảo 2, trung tâm Wernicke có thể chứa một lúc trung bình là 7 sự việc khác nhau để xử lý, trong vòng một phút là tối đa, và sẽ bị mất nếu không dùng đến! Chính vì các yếu tố quan trọng nói trên, cho thấy nổi bật vai trò của ngôn ngữ đối với trí nhớ nói chung, trí tuệ hay sự thông minh nói riêng, mà người viết sẽ đưa ra minh chứng cụ thể trong các trang kế tiếp sau đây.

So sánh hai cách viết tiếng Việt

Khả năng thu nhận kiến thức

Chúng ta đã biết rõ ngôn ngữ là một quy ước về âm thanh để con người giao tiếp với nhau trong xã hội. Ngay từ lúc còn bé tập nói, chúng ta đã được dạy (hay huấn luyện) tiếng Việt từng chữ một, và đọc hay nói từng âm một, nên thành thói quen. Từ đó, não bộ của chúng ta cũng đã được huấn luyện "quen" xử lý giống như vậy, sẽ chừa một khoảng trống sau khi tiếp thu một âm, giống y như chừa một khoảng trống giữa hai chữ Việt khi đánh máy.

Trong phần này người viết sẽ dùng một "thí nghiệm" tương đương để so sánh, và phỏng đoán mức độ khác nhau về số lượng thông tin tối đa, tiếp thu được giữa hai cách viết tiếng Việt. Giả sử là các tín hiệu của ngôn ngữ cũng có dạng gần giống hay tương đương với tín hiệu máy vi tính.

Dùng một đoạn văn tiếng Việt viết rời như hiện nay, sau khi sao lại và bỏ vào hồ sơ tên là A. Mở hồ sơ thứ hai tên là B, và dùng đề nghị sửa đổi cách viết tiếng Việt 2020, để nối lại những danh từ và động từ kép (hay những từ cần có hai chữ mới đủ nghĩa, như bài viết này làm thí dụ 3). Để tránh những sai số quá lớn do ít "Bytes", người viết đã sao lại đoạn văn trong hồ sơ A thành nhiều lần cho tới con số là 250, vừa đủ một trăm trang. Cũng làm tương tự như vậy cho hồ sơ B, sao lại thành gấp 250 lần, và chỉ chiếm có hơn 94 trang. Kết quả cho thấy cách viết nối liền chữ tiết kiệm được khoảng 5% dung tích, hay khoảng trống chứa thêm dữ kiện thông tin.

Nói một cách khác cho cụ thể hoá vấn đề, nếu giả sử có hai anh em sinh đôi A và B, với cấu trúc não bộ gần như hoàn toàn giống nhau, đọc hai hồ sơ theo hai cách viết khác nhau như trên trong cùng một thời hạn, thì B sẽ có khả năng tiếp thu nhiều dữ kiện hơn A đến hơn 5%. Một chi tiết nên biết là hai vùng tiếp thu tín hiệu sơ khởi của nghe (số 1), và thấy (số 5), đều bị hạn chế về dung tích hay số lượng, và thời gian lưu trữ tín hiệu chỉ trong vòng 2 giây.

Khả năng xử lý kiến thức (hay học hỏi)

Bây giờ xin nói đến ảnh hưởng của ngôn ngữ trong sự học, hay khả năng tiếp thu và giữ lại những hiểu biết do từ ngũ quan đưa lại, trong phạm vi chính được giới hạn bởi hai động tác nghe và thấy.

Có thể đây là một trùng hợp ngẫu nhiên, nếu so sánh giữa cách xử lý của máy vi tính và não bộ con người. Cả hai bên có rất nhiều điểm gần giống nhau như rập khuôn! Tuy nhiên, theo nhận xét của người viết thì chẳng có gì là ngẫu nhiên cả, vì con người đã cố tình chế tạo ra máy vi tính theo đúng hay rập khuôn lề lối suy nghĩ của não bộ. Bởi vậy nên mới có những nghiên cứu về "thông minh nhân tạo" (artificial intelligence).

  • Lấy thí dụ trên của em A trước, và giả sử A nghe thầy nói "Trường đại học" theo cách nói hiện giờ. Do bởi được "huấn luyện" ngay từ nhỏ, tiếng Việt nói theo đơn âm từng chữ một, nên khi các tín hiệu của 3 chữ trên được đưa vào vùng xử lý số 2 (Wernicke), cũng phải bị ngăn cách ra thành 3 âm riêng. Sau đây là diễn tiến đơn giản nhất để giải thích việc xử lý ngôn ngữ, giống như một đoạn phim được chiếu lại thật chậm:
Mã số tín hiệu "Trường" vào trước sẽ được đưa vào bộ nhớ để kiếm. Sau khi kiếm gặp rồi thì não bộ cho thấy chưa đủ nghĩa! Trường...gì?
Phải lấy thêm! Lập tức chữ "đại" được đưa vào tiếp theo thành "Trường đại". Vẫn chưa rõ nghĩa (vì bộ từ điển trong não không có nghĩa nào cho hai chữ "Trường đại" cả!)
Phải lấy thêm! Chữ "học" đưa vào nhập thành "Trường đại học". A! Đúng mã số cho ra nghĩa rồi! Ngay lập tức trong đầu của A sẽ xuất hiện hàng chữ "Trường đại học" (nên nhớ là cho đến thời điểm đó A chỉ nghe có tiếng nói mà thôi), và liền theo sau hình ảnh của một khu trường học có nhiều người lớn hơn A đi học sẽ chớp lên đâu đó trong tiềm thức, giúp cho A hiểu nghĩa luôn. Hình ảnh mà A thấy được, với chữ viết và tiếng nói, là do những gì em đã được "dạy" lần đầu, hay do sự "hướng dẫn chỉ bảo" và đã được ghi trong bộ nhớ. Dĩ nhiên, là hình ảnh "Trường đại học" của một em sinh ở Sài Gòn chắc phải khác với em sinh tại Cali!
  • Bây giờ xét đến trường hợp của B. Giả sử em được "huấn luyện từ nhỏ" theo cách viết mới, nối liền nhau những từ kép hay một nhóm chữ. Vùng số 2 của B chỉ "bắt đầu" xử lý khi các mã số đưa vào bị gián đoạn bởi một khoảng trống. Như vậy, chỉ khi nào ba tín hiệu "Trường đại học" vào hết rồi, thì vùng số 2 của B mới ra lệnh "cho phép" chạy đi tìm từ điển, và mọi thủ tục về sau cũng giống y như là của A. Kết quả cho thấy, dù tất cả các xử lý của não bộ nhanh gần như với vận tốc ánh sáng, nhưng thực tế thì A bao giờ cũng xử lý hay tiếp thu sự hiểu biết chậm hơn B. Một thí dụ cho dễ hiểu, nếu các nhà hàng để ba vật dụng là dao, muỗng, và nĩa chung nhau trong cái khăn, thì chắc chắn sẽ giúp cho người chạy bàn tiết kiệm thời gian rất nhiều, thay vì phải lấy từng cái một.

Tương tự như vậy cho khả năng nhìn thấy, và yếu tố quan trọng nhất là việc đọc sách (hay học bài). Tuy về hình ảnh không có chừa khoảng trống như ngôn ngữ, nhưng như đã nói ở trên, tất cả hình ảnh nhìn thấy cũng phải được chuyển qua mã số ngôn ngữ của não bộ trong vùng số 2 để xử lý! Vậy là cuối cùng nhịp độ xử lý về thị giác của A cũng chậm hơn B theo tỷ lệ giống như của thính giác.

Kết quả so sánh giữa hai cách viết

Trong phần trình bày trên chúng ta đã có dữ kiện để biết sơ qua về cách thức xử lý tín hiệu thông tin của não bộ, cũng như thấy rõ có sự khác nhau về mức độ nhanh chậm của hai cách viết. Phần sau đây sẽ tiếp tục phân tích chi tiết và đi sâu vào vấn đề ảnh hưởng của ngôn ngữ đối với trí tuệ.

Ở hai vùng tiếp thu sơ khởi nghe và thấy, chúng ta đã biết có sự khác nhau về số lượng tín hiệu tiếp nhận, ước chừng là 5% do khoảng trống của cách viết rời hay đơn âm, so với cách viết nối liền hay đa âm. Nhưng dám chắc chưa quan trọng cho bằng ở vùng số 2 (Wernicke), nơi xử lý các tín hiệu và cũng là chủ đích của bài viết này. Vận tốc hay nhịp độ xử lý nhanh hay chậm ở vùng này mới là điều đáng nói, vì ngay cả người viết khi tìm hiểu ra, cũng phải ngạc nhiên trước những hậu quả thật sự nghiêm trọng của vấn đề.

Do từ cách xử lý khác biệt của hai cách viết A và B, nên thời gian dùng để hiểu lời nói hay đọc sách của A sẽ lâu hơn B. Lâu hơn bao nhiêu? Muốn biết, hãy thử làm một thí nghiệm khác để ước lượng thời gian thu nhận kiến thức giữa A và B.

Dùng đoạn văn ngay phía trên, bắt đầu bằng "Ở hai vùng tiếp thu sơ khởi... nghiêm trọng của vấn đề". Trong tổng số 117 chữ, có tất cả 37 cặp chữ viết liền nhau. Như vậy nếu não bộ của A phải đi "tìm từ điển" 117 lần, thì B chỉ cần đi tìm 80 lần. Tỷ lệ giữa 37/117 cho ra khoảng 31%. Tỷ lệ này được điều chỉnh và giảm bớt khoảng 5-6 %, do thời gian nhận mã số ngôn ngữ đa âm lâu hơn đơn âm một chút, tuy rất ngắn so với thời gian xử lý. Còn lại khoảng chừng 25%. Con số này cho thấy phỏng chừng trong cùng một thời gian, trung bình não bộ A chỉ xử lý 3 sự việc, trong khi B có thể xử lý đến 4 sự việc!

Thí nghiệm kiểm chứng

Người viết có thêm một thí nghiệm cụ thể sau đây để kiểm chứng lại những gì đã nói ở trên. Dùng đối tượng cho thí nghiệm là nhờ bất cứ một người nào cũng được, và chỉ yêu cầu đối tượng nhớ một dãy số được ghi ra trên tờ giấy, trong vòng giới hạn thời gian là từ 3-5 giây. Thí nghiệm này gồm 2 phần A và B, và cách nhau ít nhất vài giờ hay một ngày, như sau:

Phần A: Ghi xuống giấy khoảng 8 con số như: 3 6 9 2 5 8 4 7. Sau khi canh chừng đồng hồ rồi thì đưa ra cho đối tượng xem trong khoảng 3-5 giây để nhớ. Sau thời hạn chấm dứt, yêu cầu đối tượng nói lại những con số vừa nhớ. Thí nghiệm trên được lập lại từ 3 đến 5 lần, với các số khác nhau. Xin ghi nhận số lần đối tượng nhớ đúng cả 8 số theo thứ tự như trên. Giữ lại kết quả tờ giấy, và chờ khoảng vài giờ hay qua ngày hôm sau, cho đối tượng quên hẳn đi.

Phần B: Cũng ghi xuống giấy khác những số trong phần A, nhưng ghép hai số kế bên nhau lại thành cặp: 36 92 58 47. Cũng cho đối tượng từ 3-5 giây và sau đó yêu cầu nói lại. Lập lại cùng một số lần thí nghiệm như A.

Kết quả nhận xét: Dám chắc rằng đối tượng sẽ nhớ đúng nhiều lần hơn trong thí nghiệm B, nếu so sánh với A. Lý do giải thích là hai thí nghiệm trên mô phỏng giống như hai cách viết tiếng Việt. Trường hợp A, vì đối tượng phải đọc từng con số nên sau 3-5 giây chỉ kịp nhớ thoáng qua mà thôi, và không có thời giờ để ôn lại, nên dễ quên. Ngược lại cho trường hợp B, đối tượng nhìn vào thì tự nhiên chỉ thấy có 4 lần để đọc và nhớ, vừa lẹ hơn nên có thời gian ôn lại trước khi hết thời hạn (thí nghiệm này chỉ nên dùng cho ai chưa biết gì, và chỉ một lần mà thôi).

Thật ra, thí nghiệm trên chỉ là một "mẹo vặt" để nhớ một dãy số khi cần, như bảng số xe hay số điện thoại, nhưng vô tình lại trùng hợp với những lý do cho thấy công dụng của cách viết nối liền hai chữ với nhau. Nếu để ý, thì thấy ngay người Mỹ cũng thường có thói quen áp dụng như trên, nhất là thích dùng chữ viết tắt (acronym). Thí dụ năm sinh là 1999 thì họ nói là 19 99, để tiết kiệm thời gian. Biết đâu đó là sản phẩm tự nhiên của trí thông minh!

Não bộ của Einstein

Một trong những khoa học gia có may mắn xin được một chút mẫu "não bộ" hiến tặng cho thế giới khi Einstein qua đời, là bà Marian Diamond, giáo sư tại Berkeley 4. Bà cùng các đồng nghiệp đã nghiên cứu mẫu não của Einstein, và công bố một chi tiết đáng chú ý như sau:

Trong vùng số 9 (frontal lobe, tức vùng thùy trán), và vùng số 39 (parietal lobe, vùng bao gồm trung tâm Wernicke, số 2 trong hình), tỷ lệ của số dây thần kinh (neuron) đối với tế bào truyền (glial cell) của Einstein, cao hơn khá nhiều nếu so với 11 người đàn ông sống khoảng trung bình 64 tuổi, tuổi thọ của Einstein, và có trí thông minh bình thường. Bà giáo sư đã kết luận đó là bằng chứng cho thấy hai vùng não bộ trên của Einstein đã làm việc nhiều và mau hơn người bình thường, và có thể giải thích phần nào lý do tại sao ông thông minh hơn người!

Hệ quả của vấn đề

Dám chắc sau khi biết được các con số sai biệt trên, có người sẽ cho rằng việc gì mà phải lo, càng chậm càng khỏe, đường nào cũng đi tới La Mã! Câu trả lời, đây không phải là vấn đề về thể xác như đi chơi hay chuyện ăn mặc. Đây là vấn đề thuộc trí tuệ hay sự thông minh, chậm ở đây sẽ là đồng nghĩa với kém thông minh, và đôi khi có thể lâm vào trường hợp giống như các pha đấu súng trên màn ảnh, chậm là chết! Sau đây là những minh chứng cụ thể cho lập luận vừa nói trên:

Chúng ta đã biết vùng số 2 đóng vai trò trung tâm xử lý các tín hiệu thu nhận từ cả hai vùng nghe và thấy. Đặc điểm chính của vùng này là chỉ có khả năng chứa một số lượng giới hạn tín hiệu trung bình tương đương với 7 sự việc, và thời gian lưu trữ tín hiệu khoảng chừng một phút. Do đó các trường hợp sau đây thường xảy ra:

Giả sử A và B cùng nghe hai thầy giảng bài trong lớp, theo hai cách viết (hay nói) khác nhau, với nhịp độ là 4 hệ luận chứng minh cho một bài toán. Nếu B vừa nghe kịp và ghi xuống cả 4, thì A sẽ chỉ kịp nghe và ghi xuống có 3 hệ luận mà thôi, coi như A chưa ghi kịp bài học. Trường hợp này thường xảy ra rất nhiều, nhất là khi đang học mà bị chia trí vì chuyện khác ở bên ngoài chen vào. A bị coi như là kém thông minh hay chậm hiểu. Nếu trường hợp thầy giảng bài chậm hơn vừa đủ cho A hiểu, thì B sẽ có dư thời giờ để lập lại trong đầu và nhớ lâu hơn, trong khi A có thể hiểu nhưng dễ quên nếu không chịu học thêm ở nhà. Đằng nào thì B cũng có ưu thế hơn hẳn A, kể cả khi đọc sách. Chắc các vị cao niên còn nhớ tại sao thời xưa, khi phương tiện ấn loát bài vở còn thiếu thốn hay chưa có, việc học hành gặp khó khăn rất nhiều, vì ít ai có thể nghe thầy giảng bài mà hiểu liền. Một phần cũng bởi do vô tình vùng số 2 của quí vị đã quen xử lý chậm, do những từ đơn âm của tiếng Việt (xin nhắc lại, người viết chỉ nói chung cho tập thể, không kể đến những cán nhân xuất sắc).
A bị chậm hơn khoảng 25% đã là thiệt thòi, nhưng nếu A phải lâm vào trường hợp gọi là bị "mất trí tạm thời" sau đây còn tệ hại gấp bội. Do phản ứng tự nhiên, thí dụ nếu vùng số 2 của A chỉ có khả năng xử lý 3 sự việc trong vòng 1 phút, thì vùng số 2 của A sẽ chỉ chịu nhận một lượng tín hiệu tương đương từ các vùng tiếp thu sơ khởi. Và như vậy, nếu vô tình vì một biến cố quan trọng nào làm trở ngại, chắc chắn sẽ xảy ra hiện tượng tín hiệu bị ứ đọng và "xóa mất" ở vùng số 1 và số 5, vì thời gian lưu trữ tín hiệu của các vùng sơ khởi chỉ có khoảng 2 giây (theo ngôn ngữ máy vi tính cho là bị phá hỏng hay "crash"). Giống y hệt như cảnh cả ngàn xe bị kẹt cứng ở xa lộ, chỉ vì có một xe bị hư máy phải chậm lại ở phía trước, trong khi số lượng xe ở phía sau vẫn tiếp tục chạy đến thật nhanh! Hiện tượng trên theo tâm lý còn gọi là bị "sảng hồn", hay nhẹ hơn là "quýnh quáng" không còn biết phải làm gì khi gặp cơn nguy biến, và những người càng "kém thông minh" thì càng dễ gặp. Dĩ nhiên, B cũng có thể bị như trên, nhưng chắc là ít hơn.
Trong suốt cả đời người không thể tránh khỏi những khoảng khắc đối diện với tai họa hay nguy biến đang xảy đến. Thí dụ như đang lái xe giữa đường gặp phải con chó chạy ngang, hay bị kẻ bất lương hăm dọa v.v. Trong tích tắc chớp nhoáng của thời gian suy nghĩ cách giải quyết vấn đề đó, chậm suy nghĩ là có thể nguy đến tính mạng! Gặp những trường hợp nguy hiểm như trên, những người có vùng số 2 tốt có thể thấu hiểu ngay tình hình (đồng nghĩa với thông minh lanh lợi) thường giữ được bình tĩnh đối phó và có nhiều cơ hội thoát hiểm hơn là những người bị "quýnh quáng" mất bình tĩnh gây ra như trong trường hợp 2.
Trong các cuộc hội họp hay thảo luận của người Việt thường xảy ra cãi vã, làm rối loạn trật tự do việc chẳng ai chịu nghe ai nói cả! Trừ một số những trường hợp có dụng ý hay chủ trương phá hoại, có ai ngờ rằng một phần nguyên nhân làdo vùng số 2 của các tham dự viên có vấn đề! Đây còn gọi là hiện tượng bị "chảy tràn" của trí nhớ ngắn hạn. Thí dụ, Diễn giả hay ông X có khoảng 4 vấnđề để trìnhbày, nhưng vùng số 2 của ông Y chỉ có thể xử lý hay tạm thời lưu trữ được tối đa là ba sự việc. Vì vậy nên khi ông X sắp tiếp tục vào vấn đề thứ tư, thì bị ông Y cắt ngang để xin phát biểu ý kiến phê bình nhắm vào 3 vấn đề vừa trình bày. Lý do, vùng số 2 của ông Y đã chứa tràn đầy các tín hiệu xử lý và đáp ứng, nếu nhận thêm tín hiệu mới vào sẽ xóa đi mất cái cũ. Phản ứng báo động "khẩn trương" trong tiềm thức cho biết không thể nhận thêm tín hiệu từ vùng số 2 được phát ra, làmcho ông Y phải quyết định lên tiếng phát biểu, dùcó biết rằng không nên làm như vậy! Kết quả thường xảy ra, Ông X sẽ phản đối vì bị cắt ngang, nhưng ông Y thì cứ thao thao xổ ra cho hết ý kiến, vì sợ để lâu sẽ quên đi! Nặng hơn nữa là trong khi đối thoại, vì trí nhớ ngắn hạn bị "chảy tràn", ông Y sẽ phản ứng tiêu cực bằng hành động không muốn nghe nói thêm gì nữa, và coi như là chấm dứt cuộc đối thoại!

Cộng đồng hay đoàn thể từ đó sẽ mang mầm mống của chia rẽ và hiềm khích(!?). Đó có thể là một trong những lý do chính, và cái giá phải trả vì do bệnh kém trí nhớ mà ra, nhưng có lẽ ít người hiểu rõ được nguồn gốc của vấn đề.

Trở lại trường hợp so sánh của A và B, vì B có khả năng tiếp thu xử lý nhiều kiến thức hơn, nên có nhu cầu cần dùng nhiều tế bào bộ nhớ. Nếu A và B còn nhỏ tuổi và não bộ đang phát triển mạnh, thì chắc chắn bộ nhớ hay dung tích não bộ của B sẽ phát triển mạnh hơn A, theo đúng luật cung cầu trong thiên nhiên. Đó là "hiện tượng" tạm thời trong một thế hệ. Nếu cứ tiếp diễn mãi qua nhiều thế hệ, thì nó lại trở thành "bản chất" theo di truyền. Luật di truyền học này có thể được giải thích giống như câu nói chúng ta thường nghe " Con quan thì lại làm quan,...". Cụ thể minh chứng điều vừa nói là dân cư ở thành thị thường "lanh lợi" hơn ở nông thôn, vì nhờ tai nghe mắt thấy nhiều chuyện hơn, một hình thức trực tiếp huấn luyện não bộ do môi trường sinh sống mà ra.

Một dữ kiện đưa ra với sự dè dặt vì cần kiểm chứng lại, hình như "chỉ số trán" nói chung của người Việt thấp hơn so với trung bình của cả thế giới. "Chỉ số trán" này là tỷ lệ giữa khoảng cách từ chân tóc đến chỗ hai hàng mi mắt giao nhau, chia cho khoảng cách từ chân tóc đến cằm. Biết đâu nguyên nhân chính là từ ngôn ngữ mà ra(?), vì chỉ số này ít tùy thuộc vào việc dinh dưỡng hay chủng tộc. Mới cách đây vài tuần, các nhà nghiên cứu y khoa của viện Rotman, Toronto 5, đã phát hiện và khẳng định rõ phần não bộ to bằng trái bida, ở phía trên đỉnh đầu thuộc vùng trán, đóng vai trò của bộ nhớ "dài hạn" 6. Nhớ lại, chẳng phải là ngẫu nhiên mà khoa tướng số học Á đông cũng cho rằng những người có trán cao ráo và rộng rãi thì thiếu niên hiển đạt sớm, và được hưởng phúc đức của tổ tiên (phúc đức này phải được hiểu như là di truyền về thể xác cũng như sự giáo dục của gia đình). Phần trán nở rộng và cao thì chắc hắn là có trí nhớ "dài hạn" rất tốt, có lợi cho việc học hành thi cử, và dĩ nhiên là khả năng suy xét tốt đẹp trong nhiều vấn đề.

Đa số các nước chậm tiến và nghèo khổ do vì chưa có một nền kinh tế ổn định và phát triển. Nhưng muốn có kinh tế vững mạnh, thì điều kiện tiên quyết là các cơ sở kinh doanh, hay xí nghiệp công cũng như tư, cần phải có nhiều nhà quản trị giỏi. Đặc điểm chung của một nhà quản trị giỏi, ngoài kiến thức và hiểu biết, thì vùng số 2 (Wernicke) phải có khả năng xử lý song song nhiều việc cùng một lúc, vì hàng ngày phải giải quyết cả chục vấn đề, có khi chỉ trong vài giờ. Trên là lý do giải thích tại sao người Việt thường yếu kém về khả năng quản trị, và biết đâu ngôn ngữ đã đóng vai trò của một trong những nguyên nhân chính(?).
Sở dĩ người Việt học ngoại ngữ thường gặp rất nhiều khó khăn từ nghe cho đến nói, là vì do chúng ta đã quen với lối đọc và nghe theo đơn âm, trong khi đa số các ngoại ngữ khác đều thuộc dạng đa âm. Đi từ đơn giản đến phức tạp bao giờ cũng khó hơn là từ phức tạp đến đơn giản. Chưa nói đến việc phải du nhập những từ mới để làm giầu thêm cho ngôn ngữ, chỉ những danh từ chuyên môn về khoa học và kỹ thuật cũng đã là trở ngại chính cho việc giảng dạy và học tập rồi. Dám chắc không riêng gì ở hải ngọai mà hiện ở trong nước, nếu có dịp đọc những bài chuyên khảo về khoa học, hiện tượng "song ngữ" đã thấy xuất hiện nhiều và thường xuyên, vì tác giả tìm không ra từ Việt, kẹt quá nên xài luôn từ tiếng Anh (hay Pháp) trong bài! Nếu tiếng Việt được dùng như đa âm thì chắc chắn sẽ dễ dàng hơn trong việc soạn thảo thêm nhiều từ chuyên môn!

Kết luận

Qua những gì đã được trình bày trên cơ sở nghiên cứu khoa học, thì sự tương quan giữa ngônngữ và trí tuệ không còn là giả thuyết nữa, mà là một thực tế. Đối với các dân tộc hiện có ngô nngữ theo đa âm tiết thì không đáng cho họ quan tâm để ý làm gì, bằng chứng là chưa hề có một chương trình khảo cứu quy mô nào "thuộc loại này" xuất hiện trên diễn đàn khoa học, nhất là ở phương tây. Cũng dễ hiểu và thông cảm, là vì cho đến nay khoa học vẫn chưa hiểu biết nhiều lắm sự vận hành của não bộ cho những phạm trù về tư tưởng, trí thông minh, hay khả năng sáng tạo. Lý do khác, không lẽ một nước tiến bộ ở Ấu Mỹ lại chịu bỏ tiền của và công sức tìm hiểu, để nói hay báo động cho các nước khác là: "Coi chừng! Ngôn ngữ của quý vị có thể có vấn đề!" Điều vừa nói phản ảnh đúng phần nào câu châm ngôn của người Việt mình: "Đèn nhà ai nấy rạng". Ngược lại, đối với các nước hiện có ngôn ngữ thiên về đơn âm hay có nhiều từ đa âm tiết do ghép lại mà thành như tiếng Việt, thì không những vấn đề có tầm quan trọng quốc gia, mà còn là "khẩn trương" và "bức xúc" của cả dân tộc. Không phải chờ đến thế kỷ này, xuất hiện cho thấy cái gọi là nền "kinh tế tri thức", thì con người mới cần đến trí tuệ(?). Lịch sử đã chứng minh từ lâu rồi: Quốc gia có hưmg vong, dân tộc có trường tồn, đất nước có văn minh tiến bộ hay không là tùy thuộc vào chỉ một mình "nó" thôi! Nó đây chínhlà trí tuệ, mà như đã minh chứng, chịu ảnh hưởng không ít của ngôn ngữ hay tiếng nói của dân tộc đó.

Vấn đề thay đổi cách viết hay ngôn ngữ sẽ không dễ dàng và thoải mái, và chắc rằng nếu có thực hiện ngay bây giờ, thì phải cần một thời gian vài chục năm trở lên mới thấy được kết quả.

Đa số chúng ta có thể sẽ không thấy hết những thành tựu của việc làm. Tuy nhiên, lợi ích thực tế trước mắt nếu bắt đầu làm bây giờ cho mọi người Việt là chúng ta sẽ có cơ hội để "tái huấn luyện" hay tập cho não bộ hoạt động tích cực nhiều hơn, nhất là cho các vị lớn tuổi. Trong vòng vài năm qua, đã có nhiều khảo cứu chứng minh rằng não bộ vẫn tiếp tục phát triển về phẩm chất và một ít số lượng các tế bào thần kinh, bất kể ở vào tuổi tác nào. Thống kê cũng cho thấy những vị cao niên nếu năng luyện tập trí óc, bằng các trò chơi có suy nghĩ nhiều hay do từ công việc làm, sẽ kéo dài tuổi thọ lâu hơn là những vị ngồi không hay chỉ biết vui thú điền viên.

Sau hết, và cũng là chủ đích của việc thay đổi, chính là nhắm vào thế hệ của những đứa bé vừa mới hay sắp được sinh ra đời, vì theo lẽ tự nhiên, tất cả đều bị bắt buộc phải học ngôn ngữ thứ nhất hay tiếng mẹ đẻ. Cho nên, nếu những kết quả nghiên cứu trên đúng như đã chứng minh, thì có thể nói mà không sợ sai lầm, đó là món qùa vô giá mà chúng ta có thể mang đến cho những mầm non, tương lai của dân tộc.

Quý vị chủ nhiệm, chủ bút các phương tiện truyền thanh và truyền thông; Quý vị lãnh đạo các cơ sở hội đoàn giáo dục và văn hóa; cùng quý độc giả, xin hãy cùng nhau tiếp tay, khởi đầu cuộc hành trình mang lại giấc mơ thịnh vượng và tiến bộ trong thiên niên kỷ mới này cho dân Việt.


copy từ trang thư viện khoa học http://www.thuvienkhoahoc.com/tusach/Ng%C3%B4n_ng%E1%BB%AF_v%C3%A0_tr%C3%AD_tu%E1%BB%87

Sự ghi nhớ và lãng quên

Sự ghi nhớ

Các hình thức ghi nhớ

Sự ghi nhớ trong hệ thần kinh được hình thành bởi sự chuyển hoá 1 của một số tế bào thần kinh.

Sự ghi nhớ được hình thành bởi sự chuyển hoá cơ bản 2 tạo nên sự ghi nhớ bản năng. Còn sự ghi nhớ được hình thành bởi sự tái chuyển hoá tế bào thần kinh là sự ghi nhớ mà mỗi cá thể tự ghi lại trong thời gian hoạt động sống của mình, nói một cách khác, sự ghi nhớ này là kết quả của sự tìm hiểu, sự học tập, rèn luyện kĩ năng của một cá thể trong một hoặc nhiều môi trường sống nào đó, hay gọi là sự ghi nhớ không bản năng. Sự ghi nhớ bản năng được hình thành và biến đổi cùng với sự hình thành và tiến hoá của loài, cho nên nó thuộc về loài, và do đó sự ghi nhớ bản năng của các cá thể trong nhiều thế hệ gần nhau của cùng một loại là giống nhau, còn mức độ thể hiện sự ghi nhớ bản năng này của các cá thể khác nhau trong cùng một loài, cùng thế hệ có thể có những sự khác nhau nào đó. Còn sự ghi nhớ tái chuyển hoá 3 là của riêng từng cá thể, do đó có thể có sự giống hoặc khác nhau giữa các cá thể khác nhau về sự ghi nhớ, về mức độ thể hiện sự ghi nhớ cùng một sự vật hoặc một sự kiện hoặc một hoàn cảnh. Sự khác nhau về ghi nhớ không bản năng, do việc lượng hoá sự vật hoặc sự việc đó để ghi nhớ ở mỗi cá thể có những mức khác nhau, vì vậy mà có tình trạng nhận thức về cùng một vấn đề của các cá thể khác nhau lại có sự dị biệt, nhiều khi còn đối lập nhau. Sự việc được đánh giá càng đúng, tức là mức lượng hoá càng cao thì khả năng ghi nhớ cũng được nâng lên.

Sự ghi nhớ bản năng giúp cho hệ thần kinh điều khiển hoạt động của cơ thể khi mọi chức năng trong cơ thể chưa được hoàn thiện, các bộ phận, các cơ quan chức năng trong cơ thể chưa được hình thành đầy đủ hoặc mức trưởng thành còn thấp. Trong các giai đoạn tiếp theo, sự ghi nhớ bản năng giúp hệ thần kinh điều khiển các hoạt động có tính nhịp điệu như điều khiển hoạt động của hệ hô hấp, tuần hoàn, di chuyển bình thường v.v...Sự hoạt động có tính nhịp điệu trong việc điều khiển hoạt động cơ thể của các tế bào thần kinh trong cơ thể động vật ngày nay được kế thừa từ phương thức hoạt động chức năng thần kinh của các tế bào thần kinh thuỷ tổ của loài, khi loài còn ở dạng tập đoàn động vật đơn bào và có một số đơn bào bị đói nằm ở phía trong của tập đoàn. Tính nhịp điệu được hình thành từ việc khi các đơn bào đói nêu trên bị cạn nguồn dinh dưỡng chúng hoạt động chức năng thần kinh rất mạnh thúc đẩy các đơn bào phía ngoài tìm kiếm và hấp thụ dinh dưỡng, tạo nên sự chênh lệch về nồng độ, thế là chúng có được sự cung cấp dinh dưỡng thông qua sự thẩm thấu. Khi đã được cung cấp dinh dưỡng, chúng no hơn, do đó hoạt động chức năng thần kinh giảm xuống hoặc ngừng lại để đến lúc khi đã dùng hết nguồn dinh dưỡng được cấp, chúng lại bắt đầu kêu lên "Tôi đang đói"để thúc đẩy hoạt động tìm kiến dinh dưỡng của tập đoàn. Điều này được lặp đi lặp lại và hình thành nên phương thức hoạt động theo nhịp điệu của các tế bào thần kinh, tạo nên "nhịp sinh học" cho các loài động vật.

Nói chung, sự ghi nhớ bản năng giúp cho cá thể duy trì được sự tồn tại ở mức thấp nhất của cá thể và duy trì sự tồn tại của loài (thông qua hoạt động sinh sản), giúp cho cá thể nhận biết được mối quan hệ với tự nhiên và mối quan hệ quần xã với mức thông tin thấp nhất, cho nên những tế bào thần kinh mang trách nhiệm ghi nhớ bản năng không được phép chuyển hoá, chúng thường là những tế bào thần kinh có mức trưởng thành cao, các ngưỡng thần kinh thu hẹp để tế bào thần kinh chỉ bị kích hoạt bởi một số rất hạn chế các dạng kích thích thần kinh. Sự biến đổi và hoàn thiện bản năng của mỗi loài động vật dựa trên cơ sở tăng số lượng tế bào ghi nhớ bản năng…Sự hình thành của các tế bào thần kinh bản năng kèm theo sự ghi nhớ bản năng và trong thực tế đã được quy định trong các hệ thống gien của loài, nếu một hoạt động bản năng cần thiết nào đó không được quy định trong hệ thống gien thì loài động vật đó không thực hiện được hoạt động bản năng. Con chim tu hú không biết làm tổ và nuôi con, mặc dù chúng vẫn thực hiện chức năng sinh sản để duy trì nòi giống, chúng không có bản năng làm tổ và ấp trứng, đến đời con cháu của chúng cũng vẫn vậy. Nhưng đa số các loài động vật, cùng với quá trình tiến hoá, các hoạt động bản năng cũng được hoàn thiện thêm. Điều này có nghĩa là các gien quy định về hoạt động bản năng cũng có sự biến đổi để làm tăng số lượng tế bào thần kinh bản năng, và cũng có nghĩa là bản năng cũng có thể thay đổi với những điều kiện nào đó. Nói cách khác đã có một sự chuyển đổi một cách từ từ các tế bào thần kinh ghi nhớ mới thành các tế bào ghi nhớ bản năng qua một số thế hệ nào đó ở một số loài động vật đa bào, và như vậy cũng đã xảy ra một quá trình bổ xung tế bào cho hệ thần kinh trong quá trình tiến hoá của động vật.

Với số lượng không nhiều về tế bào và các dạng kích thích thần kinh có thể tiếp nhận hoặc phát ra, nhóm tế bào thần kinh bản năng thực hiện nối mạng trực tiếp với nhau và với các cơ quan khác của cơ thể mà chúng có trách nhiệm điều khiển. Vì vậy các tế bào thần kinh bản năng hoạt động với các kích thích là xung điện. Khi có sự tham gia vào hoạt động điều khiển của các nhóm tế bào thần kinh khác, như trong các loài động vật bậc cao, thì các tế bào thần kinh đó cũng phải chuyển qua việc kích hoạt các tế bào thần kinh bản năng. Sự điều khiển hoạt động cơ thể của các tế bào thần kinh bản năng là trực tiếp, còn các tế bào thần kinh khác là gián tiếp. Kích hoạt các tế bào thần kinh bản năng thì dẫn đến hoạt động của cơ thể nhưng chỉ kích hoạt các tế bào thần kinh khác (điều khiển gián tiếp) thì không hoàn toàn nhận được sự hoạt động của cơ thể. Người ta có thể nghĩ mà không nói và ngược lại.

Sự ghi nhớ do tái chuyển hoá của tế bào thần kinh, gọi một cách ngắn gọn là sự ghi nhớ mới, giúp cho động vật làm quen với những môi trường mới, những nơi ở mới, những loại thức ăn mới, những cách hoạt động mới, hay nói chung là tạo cho các cá thể động vật có một sự thích nghi mới với môi trường sống mới, cách sống mới. Con ong mật biết đường tìm về tổ khi tổ của chúng được đặt ở một nơi khác. Một số loài cá nuôi, khi đã quen với cách người ta vừa cho ăn vừa gõ vào thành bể thì chỉ cần nghe tiếng gõ vào thành bể nó đã bơi đến chỗ người ta sẽ đưa thức ăn đến để chờ đợi. Con gấu trong rạp xiếc bỏ cách leo cây để ăn mật ong, nhưng lại thực hiện các động tác nhào lộn, đi xe v.v...mà người dạy thú huấn luyện cho chúng để được ăn kẹo. Dù leo cây hay nhào lộn, mục đích cuối cùng của con gấu vẫn là được ăn, trong đó phương thức nhào lộn là cách hoạt động kiếm ăn mới được hình thành trong môi trường sống mới.

Trong đời sống của mỗi cá thể động vật, sự biến đổi của môi trường sống, các mối quan hệ tự nhiên, các mối quan hệ quần xã liên tục tác động lên các cơ quan cảm giác của hệ thần kinh và kéo dài trong suốt cả quãng đời của mỗi cá thể, để sử lý được tất cả được những điều đó, đòi hỏi mỗi cá thể động vật phải ghi nhớ rất nhiều. Nhưng số lượng tế bào thần kinh là có hạn, không thể ghi được tất cả mọi thứ được truyền về từ các bộ phận thần kinh cảm giác được. Hệ thần kinh không có đủ các phần tử để ghi lại được toàn bộ màu sắc, hình khối, đường nét như chụp ảnh, vì khối lượng ảnh sẽ rất lớn, chỉ cần quay đầu hay bước một bước chân là đã có vô vàn hình ảnh của không gian được thu vào mắt. Không những chỉ ghi lại sự tác động của môi trường ngoài, mà hệ thần kinh còn phải ghi những biến đổi ngay trong cơ thể, và còn cao hơn nữa là ghi lại chính những thứ do hệ thần kinh tạo nên. Để tránh phải ghi lại tất cả những thứ vô ích, hệ thần kinh của mỗi loài động vật, của mỗi cá thể trong một loài đều có những điều kiện, những phương thức để cho một sự vật hay một sự việc được lưu lại trong hệ thần kinh dưới dạng ghi nhớ, và do đó cũng tạo nên nhiều đặc điểm của sự ghi nhớ về điều kiện để ghi nhớ, trong đặc điểm thứ 7, thứ 11, thứ 12 của các đặc điểm hình thành hệ thần kinh đã nêu, đó là sự chuyển hoá của tế bào thần kinh dưới sự biến đổi của môi trường. Trong việc thiết lập sự ghi nhớ thì quá trình thì diễn ra như sau:

Một (hoặc nhiều) kích thích thần kinh sơ cấp khi truyền đến các tế bào thần kinh có nhiệm vụ ghi nhớ (nếu nhiều kích thích sơ cấp, chúng sẽ kết hợp lại theo các tính chất của dao động điện từ hay sóng điện từ để trở thành một hoặc một phổ kích thích sơ cấp). Nếu chúng nằm trong phạm vi các giới hạn tiếp nhận kích thích và nếu tế bào thần kinh đó cũng vừa đạt một bậc chuyển hoá, thì kích thích sơ cấp đó làm cho tế bào thần kinh chuyển hoá ghi lại sự tác động của kích thích đó.

Nếu so sánh với sự ghi nhớ bằng đĩa từ, băng từ hoặc đĩa dạng CD-ROM với sự ghi nhớ của tế bào thần kinh thì có những sự giống và khác nhau sau:

Giống nhau: Đều phải có một sự tác động vật lý lên phần tử nhớ đối với đĩa và băng từ, đó là sự tác động của từ trường biến thiên của đầu từ, của đĩa dạng CD-ROM là chùm Laser, còn với tế bào thần kinh, đó là kích thích thần kinh dưới dạng xung điện hoặc sóng điện từ, một số tế bào thần kinh chịu trách nhiệm điều khiển sự định hướng còn chịu sự tác động của từ trường hoặc lực hút của trái đất.

Khác nhau: Sự khác nhau chủ yếu là sự thể hiện những gì mà phần tử ghi nhớ đã ghi được. Với đĩa CD-ROM là chùm Laser, với tế bào thần kinh là kích thích sơ cấp đã tạo nên sự ghi nhớ hoặc một kích thích gần với kích thích đó (kích thích nằm trong phổ kích thích sơ cấp của tế bào) và có khả năng kích hoạt tế bào thần kinh. Có nghĩa là phải có một kích thích ban đầu thì sự ghi nhớ mới thể hiện. Còn trong băng từ thì các phần tử ghi nhớ liên tục phát sự ghi nhớ bằng một từ trường yếu. Một sự khác nhau nữa là cường độ và thời lượng thể hiện sự ghi nhớ. Đĩa CD-ROM kết thúc sự thể hiện khi tắt kích thích, và cường độ thể hiện phụ thuộc vào nguồn kích thích. Phần tử từ thể hiện sự ghi nhớ là liên tục, nhưng cường độ rất nhỏ nên muốn đọc được sự ghi nhớ, đầu đọc phải để rất gần với phần tử từ. Còn các tế bào thần kinh lại là một bộ máy, cho nên sự thể hiện về thời lượng cũng như cường độ của sự ghi nhớ là các là các đại lượng không xác định được.

Một số đặc điểm của sự ghi nhớ mới

Để hiểu rõ hơn sự ghi nhớ của hệ thần kinh chúng ta chúng ta hãy xem xét một số đặc điểm của sự ghi nhớ mới (ghi nhớ không bản năng) của hệ thần kinh sau:

  • Không ghi nhớ tất cả những thứ tác động lên các tế bào làm nhiệm vụ ghi nhớ mới của hệ thần kinh.

Đây là cách khắc phục tình trạng số phần tử ghi nhớ thì có hạn, trong khi đó những điều phải nhớ là vô hạn. Các loài vật có chỗ ở cố định (hang, tổ…) chúng nhận biết được nhờ đánh dấu bằng mùi vị hoặc một vài ký hiệu riêng do chúng tạo ra, nhận biết đồng loại, con cái qua hình dạng, màu sắc hoặc mùi vị. Trong hoạt động phòng vệ, nhiều loài vật hành động theo bản năng hơn là những gì chúng học được. Rất khó mô tả lại một cách chi tiết một bức tranh, một cảnh quan khi chỉ nhìn thấy một lần, nếu có thì cũng chỉ nêu lên được một vài chi tiết nào đó đáng chú ý. Nói tóm lại hệ thần kinh khi ghi nhớ sự vật hoặc sự việc, nó không ghi nhớ hình ảnh theo kiểu chụp ảnh, không ghi nhớ tiếng động, âm thanh theo kiểu máy ghi âm, trong một loạt các tác động lên hệ thần kinh, thì hệ thần kinh thường chọn những tác động có cường độ mạnh hơn, gây ấn tượng hơn để ghi nhớ, tức là chọn những cơ hội chuyển hoá ngoài phù hợp với cơ hội chuyển hoá tự thân hay cơ hội chuyển hoá trong của tế bào.

  • Một chi tiết của một sự vật có thể được ghi nhớ ở nhiều tế bào, nhiều khu vực thần kinh, và ngược lại, một hoặc một nhóm tế bào thần kinh giống nhau lại ghi nhớ một chi tiết của nhiều sự vật, sự việc khác nhau.

Hệ thần kinh càng phát triển thì đặc điểm này càng rõ nét bởi số lượng tế bào thần kinh lớn thì có nhiều tế bào thần kinh cùng đạt tới bậc chuyển hoá. Khi có sự tác động của sự ghi nhớ thì các tế bào có cơ hội chuyển hoá trong phù hợp sẽ cùng chuyển hoá, tạo nên nhiều phần tử ghi nhớ cho chi tiết đó. Nếu các tế bào là cùng nhóm, có nghĩa là chúng phát ra cùng kích thích thứ cấp thì khi biểu hiện sự ghi nhớ chi tiết đó, theo nguyên tắc cộng tác dụng, cường độ biểu hiện sẽ mạnh lên. Nếu các tế bào khác nhóm, thì chúng sẽ có sự biểu hiện sự ghi nhớ theo cách khác nhau nhưng vẫn mang cùng một ý nghĩa. Khi ghi nhớ màu đỏ, khu vực hình ảnh sẽ ghi lại màu đỏ, còn khu vực ngôn ngữ sẽ ghi lại từ đỏ, và sau đó, khi nhìn thấy màu đỏ, các tế bào ghi nhớ từ đỏ cũng có thể được kích hoạt, ngược lại khi sắc đỏ được ghi cùng từ "đỏ" thì chỉ cần nghe tiếng "đỏ" hoặc đọc chữ "đỏ" thì các tế bào ghi nhớ sắc đỏ cũng được kích hoạt để biểu thị màu đỏ.

Ở đây có sự kết hợp của các tác động ghi nhớ. Mỗi một nhóm tế bào thần kinh sẽ ghi lại một hoặc một số dạng chi tiết nhất định, có nhóm ghi nhớ về màu sắc, có nhóm ghi lại hình khối, đường nét. Các nhóm này nhận các kích thích thần kinh được truyền về từ mắt. Các nhóm ghi về âm thanh, tiếng động, lời nói nhận kích thích từ tai. Khi một sự vật được mô tả bằng nhiều yếu tố tác động lên các cơ quan cảm giác của hệ thần kinh cùng một lúc như ánh sáng, âm thanh, mùi vị...thì các tế bào chịu trách nhiệm ghi lại một chi tiết của một yếu tố (ví dụ màu đỏ của ánh sáng) thì không chỉ chịu sự tác động của kích thích truyền về từ mắt mà còn chịu sự tác động của kích thích truyền về từ tai hoặc các cơ quan cảm giác khác. Điều này là cơ sở của sự kích hoạt tế bào thần kinh khi không có yếu tố chính hay kích thích cùng dạng tạo nên sự chuyển hoá để ghi nhớ trong tế bào thần kinh. Chỉ nhìn thấy quả chanh hay quả khế chua, hoặc chỉ nghe người khác nói đến quả chanh hay quả khế chua là ta đã tiết nước bọt, chứ chưa cần phải cắn vào quả chanh hay quả khế chua, ở đây, yếu tố chính gây nên sự tiết nước bọt là vị chua của quả tranh hay của quả khế chua.

Cách ghi nhớ như vậy là cách ghi nhớ nhiều điểm mà ta có thể thấy ở các băng từ ghi hình và tiếng. Nhưng sự kích hoạt sự ghi nhớ thì khác nhau hoàn toàn. Một sự kích hoạt trong băng từ hay đĩa Laser chỉ kích hoạt một phần tử nhỏ, nhưng trong hệ thần kinh thì có thể kích hoạt nhiều phần tử cùng một lúc.

  • Ghi nhớ tiêu điểm.

Khác với cách ghi nhớ nhiều điểm nói trên là cách ghi nhớ tiêu điểm, tức là cách ghi nhớ mà một tế bào hay một số tế bào thần kinh giống nhau sẽ ghi nhớ một chi tiết của nhiều sự vật hay nhiều sự việc khác nhau. Màu đỏ khi kết hợp với một chiếc áo choàng ta có chiếc áo choàng đỏ, khi kết hợp với chiếc khăn ta có chiếc khăn đỏ. Trong sự ghi nhớ của hệ thần kinh, sẽ có một hoặc một số tế bào sẽ ghi lại sắc đỏ mà không cần biết nó là một chi tiết của chiếc áo hoặc của một cái khăn, còn các tế bào khác thì ghi những chi tiết khác như chiều dài, chiều rộng, khuy áo v.v...Khi kích hoạt các tế bào thần kinh ghi nhớ về chiếc áo choàng đỏ thì các tế bào thần kinh ghi sắc đỏ cũng hoạt động biểu thị cho màu đỏ của áo, và lúc này màu đỏ mà ta hiểu là màu đỏ của áo chứ không phải màu đỏ của bông hồng. Nhưng khi kích hoạt sự ghi nhớ về chiếc khăn quàng đỏ thì mặc dù các tế bào ghi sắc đỏ đã hoạt động biểu thị cho màu đỏ của chiếc áo choàng bây giờ cũng hoạt động để biểu thị màu đỏ, nhưng màu đỏ lúc này lại là của chiếc khăn quàng chứ không còn là của chiếc áo choàng nữa.

Trong ngôn ngữ nói và viết cũng vậy, khi ta nói các câu "Tôi đang đi", "Tôi sẽ đi", " anh ta đang đi" hoặc viết các chữ có sử dụng hệ thống chữ cái hoặc các bộ chữ thì trong các câu nói trên, tiếng "đi" được ghi nhớ chung cho các câu nói khác nhau, thể hiện những ý nghĩa khác nhau nhưng có một số chi tiết giống nhau. Các chi tiết giống nhau có thể được sử dụng chung.

Sự ghi nhớ tiêu điểm cũng mang nhiều ý nghĩa lớn sau:

  • *Tiết kiệm bộ nhớ. Việc sử dụng chung các chi tiết giống nhau khi biểu thị các ý nghĩa khác nhau làm cho hệ thần kinh không phải nhớ toàn bộ các chi tiết của một sự vật hay sự việc mới, mà chỉ cần ghi nhớ những chi tiết mới chưa có trong bộ nhớ, còn những chi tiết giống hoặc đã có sẵn trong hệ thần kinh thì có thể được hệ thần kinh mang ra sử dụng để ghi nhớ sự vật hay sự việc mới này. Trong nhà đã có một chiếc thùng đựng nước màu xanh nhỏ và một người mới mang đến một chiếc thùng đựng nước to màu trắng, chi tiết đã được nhớ trong hệ thần kinh là "Chiếc thùng đựng nước, còn chi tiết mới đó là "to" và "màu trắng", hệ thần kinh chỉ cần ghi thêm hai chi tiết mới này mà vẫn thể hiện được ý nghĩa "Chiếc thùng đựng nước to màu trắng" hoặc " chiếc thùng đựng nước nhỏ màu xanh" khi muốn nói về chiếc thùng nào.

Hệ thần kinh thực hiện được việc dùng một hoặc một số ít tế bào để ghi nhớ một chi tiết giống hoặc gần giống nhau của các sự vật, sự việc khác nhau là nhờ các tế bào thần kinh được kích hoạt không phải chỉ với một tần số kích thích duy nhất mà với một phổ tần số nhất định nào đó, điều này đã được nêu trong phần "Hoạt động của tế bào thần kinh". Nếu phổ tiếp nhận kích thích càng rộng thì khả năng ghi nhớ nhiều sự vật, sự việc khác nhau càng tăng, trong khi số lượng tế bào thần kinh không tăng.

    • Chuyển đổi một cách nhanh chóng sự thể hiện ghi nhớ về một sự vật, hoặc sự việc này sang sự vật hoặc sự việc khác có một hoặc một số chi tiết trong các sự vật, sự việc đó giống nhau.

Khi các sự vật hoặc sự việc có một chi tiết giống nhau và được ghi nhớ bởi một hoặc một số tế bào thần kinh, thì các tế bào này trở thành một nút giao thông để có thể đi về rất nhiều hướng, mà mỗi hướng là sự thể hiện các chi tiết tiếp theo của sự vật hoặc sự việc. Đây là cơ sở của việc xác lập nhiều giải pháp khác nhau, nhiều cách giải quyết khác nhau cho một vấn đề, hay nói cách khác, bằng phương pháp ghi nhớ tiêu điểm, hệ thần kinh đã nhận được sự thông minh. Sự ghi nhớ của hệ thần kinh khi được thể hiện lại qua ghi nhớ tiêu điểm có thể theo một lôgích được đưa vào từ trước, nhưng cũng có thể theo một lôgích mới mà hệ thần kinh tự tạo nên hoặc chọn lựa, và đó là tư duy, là trí tuệ.

    • Giúp cho hệ thần kinh nhận dạng được các sự vật, sự việc được biểu hiện ở nhiều dạng khác nhau, mà rõ nhất là ở sự nhận dạng âm thanh, tiếng nói, sau đó là hình khối. Cùng một câu nói, cùng một ý nghĩa, nhưng do nhiều người nói với giọng khác nhau, ngữ điệu khác nhau, nhưng hệ thần kinh vẫn có thể nhận ra được. Nếu phổ tiếp nhận tần số càng rộng thì hệ thần kinh càng tiếp nhận được nhiều giọng nói khác nhau, ngưỡng thế năng càng thấp thì hệ thần kinh càng dễ nhận ra âm sắc của giọng nói. Người ta nhận ra tác dụng chứa nước của một vật bất kỳ, miễn là nó thoả mãn hai điều kiện: Nó không để nước thấm qua nó, có đáy và thành xung quanh đáy gắn liền với nhau, do đó nó có thể là ca, là cốc, là thùng, là chum, vại v.v...Khi cần đựng nước, người ta có thể vận dụng được rất nhiều thứ cho việc chứa nước và tạo ra được thứ để đựng nước từ nhiều loại vật liệu khác nhau như đất nung, sắt thép, thuỷ tinh, nhựa, gỗ,v.v... Chữ viết của người này không giống chữ viết của người khác, chữ có thể cao gầy, to nhỏ, có thể in hoa hoặc in thường, được viết đơn giản hay cầu kỳ, hệ thần kinh vẫn có thể nhận ra được ngay cả trong trường hợp nó chưa ghi nhớ hoặc chưa biết gì về các chữ đó. Ở đây hệ thần kinh đã sử dụng sự ghi nhớ tiêu điểm để chọn lọc, để ghi nhớ những đặc điểm chính biểu hiện ý nghĩa của chữ. Cho nên đã dễ dàng nhận dạng được chữ. Ý nghĩa nhận thức định tính ở đây có giá trị hơn ý nghĩa nhận thức định lượng, nếu lượng hoá một cách cao độ để ghi nhớ chữ, như quy định phải biểu thị chữ về kích thước chữ, độ rộng của nét, hình dáng, màu sắc của chữ thì một điều chắc chắn là số kiểu chữ được nhận dạng sẽ giảm xuống rất nhiều.

Tái ghi nhớ

Đây là hoạt động ghi nhớ của hệ thần kinh để ghi lại những biểu hiện hoạt động của các tế bào thần kinh, ghi lại những tác động, những kích thích thần kinh do các tế bào thần kinh tạo nên. Hoạt động này có ý nghĩa và thể hiện ở các điểm sau:

  • Tái ghi nhớ hay ghi nhớ lại tác động của môi trường bằng việc dịch chuyển hoặc thêm phần tử nhớ mới.

Khi một tế bào thần kinh đã chuyển hoá để ghi nhớ về một chi tiết nào đó, được kích hoạt, nó sẽ hoạt động và phát ra một kích thích thần kinh (kích thích thứ cấp) để biểu thị chi tiết đó, thì đối với một số tế bào thần kinh khác mà có khả năng ghi nhớ và phát ra kích thích cùng loại với tế bào đã chuyển hoá nói trên, kích thích đó là cơ hội ngoài của chuyển hoá, và nếu cơ hội chuyển hoá trong cũng xảy ra đồng thời thì nó sẽ chuyển hoá để ghi lại chi tiết đó một cách nguyên vẹn. Đây là hình thức chuyển vị trí nhớ đặc biệt do hệ thần kinh tự thực hiện và nó có những ý nghĩa sau:

  • Tăng độ rõ nét của sự ghi nhớ. Với việc tăng số lượng tế bào thần kinh ghi nhớ một chi tiết nguyên dạng bằng phương pháp trên (phương pháp cấp số nhân) thì khi kích hoạt ghi nhớ, số lượng tế bào tham gia vào việc thể hiện sự ghi nhớ sẽ tăng cao, làm cho cường độ thể hiện (kích thích thứ cấp) tăng mạnh và sự ghi nhớ được thể hiện một cách rõ ràng hơn ban đầu (lúc mới hình thành sự ghi nhớ chi tiết đó).
  • Bảo tồn nhớ và kéo dài sự ghi nhớ.

Do đặc điểm tế bào thần kinh có thể tái chuyển hoá nhiều lần nên có thể xảy ra tình trạng một tế bào thần kinh đã tái chuyển hoá để ghi nhớ một chi tiết, lại tiếp tục chuyển hoá lần nữa để thực hiện ghi nhớ một chi tiết khác của một sự vật khác, cho nên không thể thể hiện chi tiết mà nó đã nhớ trước đó (đây là một hình thức quên). Nhờ phương pháp chuyển vị trí nhớ, mà sự ghi nhớ chi tiết ban đầu trong hệ thần kinh được bảo tồn (trong một thời kỳ nào đó tuỳ thuộc vào sự tái chuyển hoá của tế bào thần kinh). Nếu thực hiện việc chuyển dịch vị trí nhớ nhiều lần trước khi tế bào nhớ bị tái chuyển hoá lần nữa thì có thể duy trì sự ghi nhớ trong một quãng thời gian dài. Đây là một hình thức "Văn ôn, võ luyện" để duy trì sự ghi nhớ.

Tái ghi nhớ đổi dạng

Tái ghi nhớ đổi dạng là sự ghi nhớ lại một chi tiết, một sự vật hay một sự việc nhưng biểu hiện ở hình thức khác. Tái ghi nhớ đổi dạng chỉ thực hiện được ở các hệ thần kinh sử dụng hệ thống tiếng nói để ghi nhớ và biểu hiện sự ghi nhớ, và các chi tiết, các sự vật, sự việc, được mô tả không chỉ bằng hệ thống tiếng động, hình ảnh, màu sắc, mùi vị v.v..., mà còn được mô tả bằng tiếng nói và các dạng ghi nhớ khác,ở đây là ghi nhớ về các tiếng nói để mô tả sự vật, sự việc hoặc ghi nhớ chính những sự tác động của sự vật, sự việc đó lên hệ thần kinh thông qua các bộ phận cảm giác của hệ thần kinh. Sự ghi nhớ đổi dạng là sự ghi nhớ thay đổi từ dạng tiếng nói sang dạng hình ảnh cụ thể trong hệ thần kinh hoặc ngược lại.

Một người lần đầu tiên nhìn thấy một chiếc ô tô, trong hệ thống từ vựng của người đó chưa có các từ nói về ô tô thì người đó không thể mô tả được chiếc ô tô đó bằng tiếng nói, nhưng nếu người đó có khả năng vẽ thì anh ta có thể vẽ ra được hình chiếc ô tô, thậm chí cả màu sắc hoặc một số chi tiết. Ở đây, trong hệ thống ghi nhớ của anh ta chỉ mới ghi được dạng hình ảnh của chiếc ô tô, và mô tả lại được cũng chỉ bằng hình ảnh. Nhưng nếu anh ta đã có một trình độ hiểu biết nhất định về ô tô thì anh ta không chỉ nhớ được hình ảnh của chiếc ô tô đó, mà còn mô tả được nó bằng hệ thống tiếng nói, và lúc này, người nghe, tuỳ vào trình độ, năng lực của hệ thần kinh người nghe, mà chiếc ô tô được hình dung dưới dạng nào đó. Với người đã nhìn thấy ô tô thì trong hệ thống ghi nhớ của hệ thần kinh, chiếc ô tô đã được ghi nhớ ở cả hai dạng tiếng nói và hình ảnh. Nhưng với người nghe chiếc ô tô đó chỉ được ghi nhớ dưới dạng tiếng nói bởi sự mô tả của người đã nhìn thấy ô tô, sau đó bằng sự tưởng tượng trên cơ sở những lời nói mô tả đó, anh ta hình dung ra hình dạng, màu sắc, các chi tiết, loại vật liệu làm nên chiếc ô tô đó và ghi lại hình ảnh đó vào bộ nhớ của mình. Như vậy, sự ghi nhớ đã được chuyển dạng từ tiếng nói sang hình ảnh.

Sự chuyển dạng ghi nhớ theo chiều ngược lại, từ hình ảnh sang tiếng nói cũng được thực hiện trong hệ thần kinh đã có khả năng ghi nhớ bằng tiếng nói. Một người khi nhìn thấy một vật thì có thể xẩy ra sự ghi nhớ bằng hình ảnh. Sau đó, người này mới hình dung lại (thể hiện sự ghi nhớ bằng hình ảnh) và thực hiện mô tả bằng tiếng nói và ghi lại thì sự ghi nhớ đã chuyển từ dạng hình ảnh sang dạng tiếng nói.

Tái ghi nhớ đổi dạng, ngoài việc mang các ý nghĩa của chuyển vị trí nhớ, nó còn tạo cho hệ thần kinh một khả năng mới, đó là sự tưởng tượng. Nếu suy nghĩ là hoạt động tư duy ở khu vực tiếng nói, âm thanh thì sự tưởng tượng là hoạt động của tư duy ở khu vực hình ảnh, cảm giác. Nhờ sự đổi dạng mà suy nghĩ có thể chuyển thành tưởng tượng và ngược lại, từ tưởng tượng có thể chuyển thành suy nghĩ. Sự kết hợp của hai yếu tố này một cách nhịp nhàng, nhuần nhuyễn, kịp thời sẽ thúc đẩy một cách mạnh mẽ hoạt động tư duy. Tưởng tượng tốt sẽ giúp cho suy nghĩ chắc chắn và chính xác. Suy nghĩ tốt sẽ làm cho việc tưởng tượng phong phú. Suy nghĩ tốt sẽ làm giàu cho đời sống vật chất. Tưởng tượng tốt làm giàu có cho đời sống tinh thần. Nếu chỉ có suy nghĩ mà không có tưởng tượng, hoạt động tư duy sẽ trở thành khô khan, nhưng nếu chỉ có tưởng tượng mà không suy nghĩ thì hoạt động tư duy trở nên hão huyền.

Sự khác nhau về khả năng ghi nhớ giữa các cá thể động vật

Điều này bắt nguồn từ việc mỗi hệ thần kinh được hình thành trong những hoàn cảnh khác nhau, những thời điểm khác nhau, do đó mỗi hệ thần kinh, kể cả các cá thể cùng loài, có một khả năng ghi nhớ nhất định biểu hiện ở những điểm sau:

  • Dễ nhớ và nhớ nhanh. Đây là biểu hiện của đặc tính dễ chuyển hoá của các tế bào thần kinh. Cá thể nào có đặc tính dễ biến đổi cao thì dễ ghi nhớ, cá thể nào mang đặc tính dễ biến đổi thấp thì khó ghi nhớ hơn. Nếu trong hệ thần kinh không có tế bào có khả năng tái chuyển hoá thì sự ghi nhớ mới không thể thực hiện được, mọi hoạt động của cơ thể được thực hiện bởi sự điều khiển của các tế bào thần kinh ghi nhớ bản năng.
  • Phổ tác động của kích thích thần kinh lên các tế bào ghi nhớ phù hợp với phổ tiếp nhận kích thích của tế bào sẽ làm cho tế bào dễ ghi nhớ hơn.

Số lượng các tác động từ các môi trường lên hệ thần kinh là rất nhiều, các tế bào thần kinh chịu trách nhiệm ghi nhớ những sự tác động đó có thể nhận trực tiếp. hoặc nhận gián tiếp thông qua các cơ quan cảm giác, các tế bào thần kinh cảm giác và truyền dẫn thần kinh. Do số lượng tế bào là có hạn và để đảm bảo sự sống của tế bào thần kinh, mà cơ thể đã tạo cho tế bào thần kinh một hàng rào bảo vệ để chống lại vô số tác động của môi trường, chỉ để lại một ô cửa cho một số tác động của môi trường có thể đi qua, tạo nên phổ tiếp nhận kích thích thần kinh, điều này đã được trình bày trong phần "Hoạt động của tế bào thần kinh". Riêng đối với các tế bào ghi nhớ, thì các tác động của môi trường không chỉ kích hoạt hoạt động chức năng thần kinh của các tế bào này, mà trước đó có thể nó đã làm chuyển hoá tế bào để ghi nhớ sự tác động của nó (cũng có thể có một tác động khác làm chuyển hoá tế bào nhưng nó vẫn kích hoạt được tế bào này) tuỳ theo vị trí của ô cửa, độ mở của cánh cửa mà phổ tiếp nhận kích thích rộng hay hẹp, tế bào tiếp nhận được nhiều hay ít các tác động của môi trường hay các kích thích thần kinh, loại kích thích thần kinh. Điều này đã dẫn đến hiện tượng mỗi người, mỗi cá thể có khả năng ghi nhớ về một lĩnh vực nào đó dễ dàng hơn so với các lĩnh vực khác. Có người nhớ được sự rắc rối của các công thức toán học rất nhanh, nhưng lại rất vất vả khi học thuộc lòng một bài thơ. Có người chỉ nhìn thoáng một bức tranh đã cảm nhận được rất nhiều sắc màu của nó. Với các nhạc sĩ thì việc ghi lại một bản nhạc thì lại là một điều dễ ràng...

Việc dễ ghi nhớ về một lĩnh vực nào đó (hay một phổ kích thích nào đó) tạo nên thiên hướng của hoạt động thần kinh. Thiên hướng bộc lộ rõ tạo nên năng khiếu bẩm sinh. Nói cách khác sự ghi nhớ cũng như thiên hướng hoạt động của hệ thần kinh đã có phần nào đó được xác định từ khi cơ thể đang ở trong giai đoạn hình thành.

Không chỉ khác nhau về khả năng ghi nhớ giữa các hệ thần kinh khác nhau, mà ngay trong cùng một hệ thần kinh, giữa các nhóm tế bào khác nhau cũng có những mức độ ghi nhớ và phổ kích thích (phổ ghi nhớ hay lĩnh vực ghi nhớ) khác nhau. Nếu phần lớn các tế bào ghi nhớ chỉ tập trung ghi nhớ về một lĩnh vực nào đó thì hoạt động thần kinh sẽ đơn điệu, có khi là máy móc giáo điều. Nếu hệ thần kinh có nhiều nhóm khác nhau và các nhóm ghi nhớ được nhiều lĩnh vực khác nhau thì hoạt động thần kinh sẽ phong phú hơn, và nhờ sự tác động qua lại giữa các nhóm mà nảy sinh hoạt động sáng tạo bởi nó chống được sự đơn điệu, giáo điều.

  • Mức độ ghi nhớ khác nhau về từng lính vực.

Sự khác nhau về khả năng ghi nhớ còn thể hiện về mức độ ghi nhớ về từng lĩnh vực của các hệ thần kinh khác nhau, điều này xảy ra bởi những nguyên nhân sau:

    • Khác nhau về mức độ khó hay dễ chuyển hoá.
    • Khác nhau về sự tác động của môi trường hay sự kết hợp của các cơ hội chuyển hoá trong và chuyển hoá ngoài.

Mức độ dễ hay khó chuyển hoá của các tế bào thần kinh nói riêng và của các tế bào sinh vật nói chung là một đặc tính sinh học của sự sống. Mỗi loài sinh vật, mỗi cá thể sinh vật đều có một mức độ dễ hay khó chuyển hoá nhất định. Và điều này, như các phần trước đã nêu, có ảnh hưởng lớn đến sự tiến hoá, sự thích nghi, tồn tại và diệt vong của từng loài, từng cá thể. Vấn đề này sẽ được bàn đến trong một phần riêng sau này.

Một số phương pháp tác động để ghi nhớ về một chi tiết, một sự vật hay một sự việc

Đây là hệ quả trực tiếp từ các đặc điểm 1, 2, 3 của sự ghi nhớ mới được nêu ở trên. Mắt ta chưa từng được nhìn thấy một vật nào đó, nhưng thông qua sự mô tả của người khác bằng lời nói hay bằng những câu viết với một mức độ cần thiết đủ cho ta hình dung ra nó thì sự hình dung này sẽ được ghi lại trong khu vực hình ảnh, để rồi sau đó ta nhận đúng được vật mà ta đã được nhận sự mô tả khi nhìn thấy nó. Con cá được ăn cùng lúc với việc nghe tiếng động ở thành bể thì sau đó chỉ cần nghe tiếng động ở thành bể nó sẽ nhớ đến việc được ăn.Lợi dụng điều này ta có thể làm tăng khả năng ghi nhớ bằng cách tác động cùng một lúc lên nhiều bộ phận cảm nhận của hệ thần kinh. Khi học thuộc bài để nhanh ghi nhớ, không chỉ nhìn bằng mắt vào chữ viết, mà kết hợp với việc đọc bài thành tiếng, tay viết chữ theo âm thanh phát ra khi đọc, kết quả ghi nhớ sẽ được thực hiện nhanh hơn là chỉ nhẩm bài học trong đầu. Thực tế ở đây là ta lợi dụng đặc điểm ghi nhớ ở nhiều vị trí trong hệ thần kinh khi ghi nhớ một chi tiết và khả năng đổi dạng ghi nhớ.Nếu sự ghi nhớ tiêu điểm đã có trong hệ thần kinh thì sự ghi nhớ này cũng có thể được sử dụng trong trường hợp này.

Sự ghi nhớ chậm

Đây là sự ảnh hưởng do chuyển đổi từ tác động của các yếu tố vật lý sang tác động của các yếu tố hoá học. Dưới tác động của các yếu tố vật lý (xung điện sinh học hay sóng điện từ sinh học), các yếu tố hoá học (các prôtêin trong tế bào thần kinh) sẽ sắp xếp, liên kết với nhau theo một trật tự nào đó. Nhưng không phải lúc nào các yếu tố hoá học cũng có sẵn hoặc phù hợp với yêu cầu (thiếu cơ hội trong). Mặt khác các phản ứng, các tác động hoá học thường có tốc độ thấp hơn các yếu tố vật lý, cho nên sự ghi nhớ của hệ thần kinh không nhanh bằng các hình thức ghi nhớ vật lý hay sử dụng các yếu tố vật lý để ghi nhớ.

Sự ghi nhớ kém bền vững

Nguyên nhân chính của vấn đề này là tế bào thần kinh là một thực thể sống, nó chỉ giữ được sự ghi nhớ khi nó còn sống và không bị tái chuyển hoá để ghi nhớ về vấn đề khác. Do sống trong sự liên kết với các tế bào khác cho nên nó luôn phải thực hiện sự liên hệ với các tế bào khác, và tiếp xúc liên tục với môi trường cơ thể cũng như một số tác động khác, cho nên khả năng tái chuyển hoá hay thay đổi sự ghi nhớ là cao. Nói một cách khác các phần tử ghi nhớ của hệ thần kinh là không thể đưa vào bảo quản, cất giữ được, sự bền vững cho ghi nhớ chỉ còn trông chờ vào khả năng tự thân của tế bào thần kinh và các hình thức chuyển đổi ghi nhớ của hệ thần kinh.

Sự ghi nhớ liên kết và ghi nhớ không liên kết

Sự ghi nhớ liên kết giúp cho hệ thần kinh có thể tái hiện được những sự kiện, những vấn đề những chi tiết hoặc những hình ảnh có liên quan đến nhau hoặc không có sự liên quan nhưng được đưa vào hệ thần kinh theo một trình tự thời gian. Các thông tin từ bên ngoài được hệ thần kinh tiếp nhận bằng hệ thống cảm giác theo trật tự thời gian hoặc không theo trật tự thời gian nhưng có những mối quan hệ nào đó sẽ liên kết với nhau thành chuỗi thông tin. Khi có một kích thích tác động lên một thành phần trong chuỗi thông tin thì một phần hoặc toàn bộ chuỗi thông tin đó được kích hoạt để thể hiện sự ghi nhớ. Ưu điểm của hình thức ghi nhớ này là nó giúp cho hệ thần kinh dễ tái hiện được những cái mà nó đã nhớ, những vấn đề có liên quan đến nhau, những chủ đề thường được tái hiện nhanh. Những điều này tạo được sự tự tin cho hệ thần kinh. Nhưng nhược điểm của nó là dễ tạo nên sự giáo điều, bảo thủ, nhiều khi rườm rà vì những vấn đề không hoặc ít liên quan cũng xen vào chủ đề chính làm mất sự tập trung, khả năng sáng tạo thấp.

Sự ghi nhớ không liên kết là việc hệ thần kinh không tạo ra các mối liên hệ hoặc chỉ tạo ra các mối liên hệ mang tính tạm thời giữa các vấn đề, các chi tiết, các hình ảnh mặc dù chúng có liên quan đến nhau hoặc được hệ thần kinh tiếp nhận theo trật tự thời gian, sự liên kết yếu nhiều lúc cũng có biểu hiện này. Do các thông tin đó không được liên kết thành chuỗi cho nên việc thể hiện những cái có liên quan đến nhau là khó khăn, chúng không được hệ thần kinh tái hiện đầy đủ trong một lần nhớ lại, nhiều vấn đề, nhiều chi tiết không được thể hiện khi có kích thích không phải vì hệ thần kinh không nhớ mà có thể do các tế bào thần kinh ghi nhớ đã chuyển đổi phổ tiếp nhận kích thích thần kinh hoặc tái chuyển hoá,v.v...Do việc thể hiện sự ghi nhớ không được đầy đủ vào lúc cần thiết nên hệ thần kinh dễ gặp lúng túng trong việc sử lí thông tin, do đó nó dễ mất đi sự tự tin. Nhưng ưu điểm của nó là làm cho hệ thần kinh có khả năng sáng tạo. Tính sáng tạo được thể hiện khi hệ thần kinh xoá bỏ những mối liên hệ cũ của sự ghi nhớ và tạo lập những mối liên hệ mới hợp lí hơn, cô đọng và xúc tích hơn.

Sự lãng quên

Sự lãng quên là sự mất đi sự ghi nhớ về một chi tiết ,một sự việc hoặc sự vật nào đó của hệ thần kinh. Sự lãng quên có một số biểu hiện sau:

Sự lãng quên do chưa kịp ghi nhớ

Ta đã biết rằng phần lớn các tác động lên các tế bào ghi nhớ của hệ thần kinh đều là gián tiếp thông qua các bộ phận cảm giác và truyền dẫn kích thích thần kinh. Khi các tế bào truyền dẫn cuối cùng được kích hoạt để truyền kích thích cho các tế bào ghi nhớ thì sự hoạt động của nó sẽ thể hiện giống như các tế bào ghi nhớ, điều này xảy ra tương tự như sự lưu hình của các tế bào thị giác trong võng mạc mắt. Có thể nói nhờ các tế bào này mà hệ thần kinh thực hiện được sự ghi nhớ tạm thời (hay giữ lại cơ hội chuyển hoá ngoài) để chờ sự ghi lại của các tế bào ghi nhớ (chờ cơ hội chuyển hoá trong). Nhưng vì là bộ phận truyền dẫn nên các tế bào này lại tiếp tục phải nhận các kích thích mới từ các tế bào thần kinh cảm giác. Cho nên chúng không được phép lưu lại quá lâu những gì chúng ghi nhớ. Sự ghi nhớ tạm thời kết thúc khi có nhu cầu ghi nhớ mới. Trong thời kì ghi nhớ tạm, các tế bào này có thể được kích hoạt để thể hiện sự ghi nhớ (nếu kích thích cùng dạng với kích thích hay tác động ban đầu) và nếu lúc đó các tế bào ghi nhớ chuyển hoá kịp, thì sự ghi nhớ chính thức được thực hiện. Hết thời hạn ghi nhớ tạm thời mà không có tế bào ghi nhớ nào thực hiện được việc ghi nhớ thì hệ thần kinh có sự lãng quên do chưa hoặc không kịp ghi nhớ.

Các tế bào thần kinh truyền dẫn kích thích làm nhiệm vụ ghi nhớ tạm thời cũng chịu ảnh hưởng của đặc tính dễ hay khó chuyển hoá mà thực hiện việc ghi nhớ tạm thời cũng phải có sự tác động của yêú tố cần ghi nhớ lặp đi lặp lại một số lần mới thực hiện được, nhưng sự ghi nhớ tạm thời này lại lưu lại được trong một quãng thời gian đáng kể. Trong thực tế, các tế bào này làm nhiệm vụ ghi nhớ mới trong các hệ thần kinh bậc thấp, chưa có tế bào làm nhiệm vụ ghi nhớ mới chính thức, và trong quá trình tiến hoá, các tế bào này là khởi thuỷ của các tế bào ghi nhớ của hệ thần kinh và chuyển dần sang từ các tế bào màu trắng- là các tế bào không hoặc khó tái chuyển hoá sang các tế bào thần kinh màu xám dễ chuyển hoá hơn. Còn trong các hệ thần kinh bậc cao có các tế bào thần kinh dễ chuyển hoá, sự ghi nhớ tạm thời diễn ra nhanh, nhiều khi tạo nên cảm giác là sự ghi nhớ đã được ghi lại tức thời vì có thể tái hiện ngay chi tiết hay sự vật, sự việc sau khi kết thúc sự tác động của chi tiết hay sự vật, sự việc đó để ghi nhớ, mà thực tế chỉ là sự hoạt động dạng lưu hình của các tế bào thần kinh ghi nhớ tạm. Vì vậy để có sự ghi nhớ chính thức một cách chắc chắn phải kích hoạt sự ghi nhớ tạm thời nhiều lần để chuyển từ hình thức ghi nhớ tạm sang hình thức ghi nhớ chính thức.

Sự lãng quên do cường độ thể hiện sự ghi nhớ quá yếu

Trong trường hợp này, sự ghi nhớ chính thức đã được thực hiện, nhưng khi kích hoạt để thực hiện sự ghi nhớ thì do mức trưởng thành của tế bào thần kinh còn thấp, hoặc do số lượng tế bào tham gia vào việc ghi nhớ chi tiết hoặc sự vật, sự việc đó là quá ít, cho nên cường độ phát kích thích thứ cấp yếu, sự ghi nhớ không thể hiện ra được, hoặc hiện ra một cách mờ nhạt, không đầy đủ. Đặc điểm này thường có khi hệ thần kinh còn non yếu hoặc do nguyên nhân nào đó mà tốc độ trưởng thành của các tế bào thần kinh còn thấp. Sau một quãng thời gian nào đó, các tế bào thần kinh đạt một mức trưởng thành, cường độ hoạt động chức năng mạnh lên thì sự ghi nhớ đó được thể hiện một cách rõ ràng hơn. Khi ta ở vào lứa tuổi trung niên, ta sẽ cảm thấy những ký ức hoặc những sự kiện xảy ra khi ta đang ở trong trưởng thành được tái hiện rõ ràng, mạch lạc, điều mà trước đó, dù cố gắng hồi tưởng lại, ta cũng thấy khó khăn, có những việc tưởng chừng ta không nhớ, hoặc đã quên cũng có khả năng được tái hiện, điều này cũng có ý nghĩa là hệ thần kinh của ta thực tế đã ghi nhớ được nhiều điều hơn ta tưởng, vấn đề là ở chỗ làm kích hoạt được sự ghi nhớ đó. Điều này thường gọi là tiềm thức của hệ thần kinh.

Sự lãng quên do tái chuyển hoá

Đây thực sự là việc xoá bỏ những gì mà hệ thần kinh đã ghi nhớ, nhưng cũng là một hoạt động bình thường của hệ thần kinh. Các tế bào thần kinh đã được tái chuyển hoá để ghi nhớ về một vấn đề gì đó, do ít hoặc không được kích hoạt để thể hiện sự ghi nhớ, hay chúng không phải thực hiện hoạt động chức năng thần kinh, do đó chúng có cơ hội để thực hiện hoạt động sinh trưởng mạnh. Mặt khác do không hoạt động thể hiện sự ghi nhớ, cho nên chúng không chuyển dịch sự ghi nhớ cho tế bào thần kinh khác được. Cho nên khi chúng đạt tới một bậc chuyển hoá và có cơ hội chuyển hoá ngoài, chúng tiếp tục thực hiện tái chuyển hoá, từ bỏ sự ghi nhớ trước hay chức năng thần kinh trước để nhận việc ghi nhớ mới, và khi chúng hoạt động với sự ghi nhớ mới này, có nghĩa là chúng thực hiện một chức năng thần kinh mới.

Trong trường hợp này, muốn ghi lại điều ghi nhớ trước đó, chỉ có cách duy nhất là cho điều cần ghi nhớ tác động trở lại hệ thần kinh, hay nói cách khác là thực hiện việc học lại điều cần ghi nhớ đó và để cho một tế bào thần kinh khác thực hiện việc ghi nhớ thay cho tế bào đã từng đảm nhận ghi nhớ này.

Lãng quên do các tế bào ghi nhớ không hoạt động

Đây là sự lãng quên xảy ra sau khi các tế bào thần kinh chịu một sự tác động lớn, cường độ thần kinh kích thích quá mạnh vượt quá ngưỡng tiếp nhận kích thích, trong trường hợp này, để tự bảo vệ, các tế bào thần kinh thu hẹp phổ tiếp nhận kích thích thần kinh. Do đó, sau khi chấm dứt sự tác động của kích thích với cường độ cao, tế bào thần kinh không kích hoạt được với những kích thích thần kinh bình thường, không thực hiện được việc thể hiện sự ghi nhớ. Dạng phản xạ tự bảo vệ này giống như hình thức kết bào xác của một số vi khuẩn khi gặp điều kiện sống khó khăn, có nghĩa là các tế bào thần kinh kinh vẫn sống, vẫn giữ được những gì đã ghi nhớ, do đó chúng có khả năng phục hồi lại được hoạt động chức năng thần kinh. Dạng lãng quên này được gọi là sự lãng quên có phục hồi.

Quên do các tế bào thần kinh ghi nhớ bị chết

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến cái chết của tế bào thần kinh như bệnh lý, các tế bào thần kinh bị vi rút phá hoại, thiếu dưỡng khí hoặc các chất dinh dưỡng, bị nhiễm độc do độc tố hoặc chấn thương cục bộ v.v...Sự ghi nhớ trong trường hợp này không phục hồi lại được, nhiều khi còn xảy ra các trường hợp nhớ lẫn lộn, chi tiết của sự vật này lại được gắn vào sự vật khác, tính lô gích đã được thiết lập trong quá trình ghi nhớ bị phá vỡ, cho nên việc kích thích hoạt để thể hiện sự ghi nhớ đầy đủ về một sự vật hoặc một sự việc là khó khăn hoặc không thể thực hiện được.

Quên do các tế bào thần kinh đang ở trong trạng thái ức chế

Khi tế bào thần kinh đang ở trong trạng thái ức chế (sẽ được nói rõ hơn ở phần sau) thì mặc dù các kích thích sơ cấp nằm trong phạm vi tiếp nhận kích thích của tế bào thần kinh đó tác động lên chúng thì chúng cũng không thực hiện hoạt động chức năng thần kinh. Sự ghi nhớ không thể hiện được với sự lãng quên này, nhưng không có điều gì đáng ngại vì sau đó các tế bào thần kinh vẫn thể hiện lại được sự ghi nhớ. Nhưng trong nhiều trường hợp nhất thời lãng quên này mà ta có thể bị làm vào hoàn cảnh khó xử hoặc bỏ lỡ một cơ hội tốt. Sự ghi nhớ có thể tái hiện được ngay sau khi giải thoát các tế bào ghi nhớ khỏi trạng thái ức chế.

Quên do chưa tạo ra hoặc đứt liên kết ghi nhớ

Các tế bào dưới sự tác động của các đối tượng ghi nhớ đã chuyển hoá để ghi nhớ, nhưng giữa chúng chưa thiết lạp được liên kết hoặc liên kết bị đứt do một nguyên nhân nào đó thì khi tế bào trước hoạt động, chúng không kích thích các tế bào ghi nhớ tiếp theo. Đối tượng được ghi nhớ sẽ không thể hiện đầy đủ như khi nó tác động lên hệ thần kinh. Sự ghi nhớ được thể hiện rời rạc, không rõ ràng hoặc khó khăn.

Quên và hiện tượng nhớ lại của tuổi già

Chứng quên của tuổi già rất đa dạng và do nhiều nguyên nhân. Nhưng có thể kể đến các hình thái sau:

  • Quên do không thể ghi nhớ được.

Trường hợp này gần giống với trường hợp quên thứ nhất tức là không ghi nhớ được, nhưng có khác ở chỗ trong hệ thần kinh không còn tế bào thần kinh thực hiện sự ghi nhớ chính thức mà chỉ còn có các tế bào thực hiện sự ghi nhớ tạm thời, điều này có nghĩa là hệ thần kinh đã sử dụng hết các phần tử nhớ của mình và các phần tử này không còn khả năng tái chuyển hoá để thực hiện sự ghi nhớ mới. Do đa số các trường hợp đều xảy ra khi người hoặc động vật đã có thời gian sống lâu, cho nên có thể gọi chứng quên này là của tuổi già, nhưng cũng không loại trừ các trường hợp ít tuổi nhưng đã sử dụng hết bộ nhớ của hệ thần kinh và mức độ dễ tái chuyển hoá thấp. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định số lượng những vấn đề cần ghi nhớ cho một hệ thần kinh, tránh được việc sử dụng bộ nhớ vào những vấn đề không cần thiết, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả bộ nhớ sẽ giúp cho việc nâng cao năng lực hoạt động tư duy. Nếu không làm được điều này ngay từ khi con người còn ít tuổi thì sẽ có thể dẫn đến sự lãng phí lớn cho một số hệ thần kinh có mức trưởng thành cao từ sớm, có năng lực tư duy bộc lộ ra ngay từ khi còn ít tuổi, nhưng do mức trưởng thành cao, các tế bào thần kinh trở nên khó tái chuyển hoá mà các hệ thần kinh này dần dần mất đi năng lực sáng tạo, trở nên giáo điều và bảo thủ bởi không còn khả năng tiếp thu những điều mới mẻ. Nói cách khác, tận dụng hết công suất nhớ của hệ thần kinh quá sớm cũng không phải là một điều hoàn toàn hay.

  • Quên do các tế bào ghi nhớ không còn khả năng thực hiện hoạt động chức năng thần kinh.

Khi tuổi cao, các cơ quan chức năng khác làm các nhiệm vụ cung cấp dinh dưỡng. điều hoà môi trường trong cơ thể không còn hoàn thành được nhiệm vụ của mình, các tế bào thần kinh không còn nhận được đủ dinh dưỡng cho hoạt động chức năng thần kinh thì mặc dù chúng vẫn chịu sự tác động để thể hiện sự ghi nhớ nhưng không thực hiện được do không có năng lượng được giải phóng từ hoạt động phân giải từ dinh dưỡng và ô xi. Sự lãng quên này nhiều khi có biểu hiện giống với trường hợp lãnh quên thứ 5.

  • Sự nhớ lại của tuổi già.

Đây là biểu hiện của sự thoái triển của hệ thần kinh xảy ra trong trường hợp chức năng dinh dưỡng của cơ thể giảm sút mạnh, nhưng hô hấp và tuần hoàn vẫn duy trì tốt hoặc ở mức cao làm cho các tế bào thần kinh không nhận được các chất dinh dưỡng, nhưng lại nhận được đủ ô xi cho hoạt động chức năng thần kinh. Vì vậy, khi có kích thích để kích hoạt hoạt động chức năng thần kinh, các tế bào thần kinh sử dụng luôn các bào quan (là các bộ phận thực hiện các hoạt động chức năng thần kinh) của mình làm nguồn năng lượng cho kích thích thần kinh thứ cấp. Nếu các tế bào thần kinh này thực hiện tái chuyển hoá nhiều lần để ghi nhớ nhiều sự việc, sự vật khác nhau thì các bộ phận các bào quan được biến đổi phục vụ cho việc ghi nhớ, khi bị sử dụng vào việc phân giải để có năng lượng cho kích thích thứ cấp (thể hiện sự ghi nhớ) chúng sẽ bị phân giải lần lượt từ những bộ phận ghi nhớ mới nhất, khi các bộ phận này bị phân giải hết thì các bộ phận được chuyển hoá trước đó để ghi nhớ một sự kiện trước đó sẽ có thể hoạt động để thể hiện sự ghi nhớ này và tạo nên hiện tượng nhớ lại của tuổi già. Đây là hiện tượng của nhiều người cao tuổi thường gặp phải, những sự kiện hiện tại thì không thể nào nhớ được, nhưng những kí ức trước đây lại được thể hiện. Quá khứ trở lại với người già. Nhưng do các kích thích để thể hiện sự ghi nhớ mà các tế bào nhận được đã khác đi, nói cách khác sự gợi nhớ một đằng, nhưng sự nhớ lại thể hiện một nẻo, nên các kí ức được nhớ lại ít có khả năng đầy đủ, hay tính lôgích trong sự ghi nhớ bị rối loạn. Sự nhớ lại không đúng với hoàn cảnh hiện tại nhiều khi làm người ta hoang mang, không biết được hoàn cảnh hiện tại là thật hay là mơ. Sự nhớ lại càng rõ thì sẽ lấn át sự ghi nhớ tạm thời, do đó sự nhận thức hiện tại không thực hiện được, người ta quên ngay những gì đang xảy ra nhưng lại ghép những sự kiện những chi tiết của quá khứ cho những sự kiện đang xảy ra. Điều này tạo nên sự lẫn lộn trong hành vi. Với người có biểu hiện nhớ lại của tuổi già thì biểu hiện hoạt động tư duy vẫn còn nhưng ở dạng lầm lẫn, còn với những người không còn khả năng hoạt động chức năng thần kinh thị biểu hiện là đờ đẫn, thẫn thờ. Trong trường hợp nhớ lại, có nhiều khả năng dẫn đến teo não, còn trong trường hợp không hoạt động thần kinh não vẫn có thể giữ nguyên được khối lượng của nó nếu nó vẫn nhận được một lượng dinh dưỡng và ô xi tối thiểu để duy trì sự tồn tại của các tế bào thần kinh.

Thực ra, trong đời sống của mỗi cá thể, luôn diễn ra hai quá trình cùng một lúc, đó là sự phát triển và sự thoái triển, giai đoạn nào mà sự phát triển chiếm ưu thế thì người ta thấy được sự lớn lên. Giai đoạn nào mà sự thoái triển chiếm ưu thế thì cơ thể có biểu hiện nhỏ lại.Hai trạng thái này đạt sự cân bằng thì cơ thể không phát triển. Hệ thần kinh là một bộ phận của cơ thể cho nên cũng nằm trong các trạng thái đó. Nhưng do đặc điểm của riêng mình mà hệ thần kinh phát triển chậm hơn nhưng sự thoái triển có thể diễn ra nhanh hơn (tuỳ theo từng cá thể) so với sự phát triển và thoái triển chung của cơ thể.

Sự thoái triển của hệ thần kinh tuổi già thường dẫn đến sự nhớ lại kí ức, nhưng sự thoái triển của các tế bào thần kinh có mức trưởng thành thấp (hệ thần kinh trẻ) thường dẫn đến giảm cường độ thể hiện sự ghi nhớ, và đó là sự lãng quên thứ 2. Sự thoái triển ở tuổi trẻ thường xảy ra khi hệ tiêu hoá kém hoặc yếu tim, thiếu máu..., nói chung là thiếu dinh dưỡng, điều này làm cho sự ghi nhớ của hệ thần kinh giảm sút, dễ quên. Sự thoái triển còn xảy ra trong trường hợp các tế bào hoạt động chức năng thần kinh quá mạnh làm cho các bào quan bị phá huỷ, hoặc tính bền được tạo lập cho cấu trúc chức năng của tế bào là yếu, dễ bị tan rã nên cùng dẫn đến sự quên lãng.

Vai trò của sự ghi nhớ và lãng quên trong hoạt động thần kinh

Sự ghi nhớ và lãng quên giữ vai trò quan trọng trong hoạt động của hệ thần kinh. Đặc biệt là vai trò của sự ghi nhớ mới. Sự lãng quên cũng có vai trò của nó và nếu không nhận ra điều này thì có thể làm hạn chế hoạt động của hệ thần kinh.

Cơ sở quan trọng nhất của hoạt động thần kinh cao cấp là sự ghi nhớ mới. Nếu hệ thần kinh không ghi nhớ được thì hoạt động thần kinh mang tính bản năng. Tác dụng của ghi nhớ chịu sự chi phối của khả năng ghi nhớ, hình thức ghi nhớ và thể hiện sự ghi nhớ. Khả năng ghi nhớ tốt giúp hệ thần kinh ghi nhớ được nhiều tác động của môi trường sống, giúp hệ thần kinh có nhiều tài nguyên để tư duy. Nhưng nếu ghi nhớ quá nhiều mà không có phương thức thể hiện ghi nhớ phù hợp thì nhiều khi kết quả lại ngược lại. Nhiều sự ghi nhớ cùng xuất hiện sẽ khiến cho hệ thần kinh phải thực hiện sự lựa chọn và do đó tốc độ phản ứng thần kinh sẽ bị chậm. Trong những trường hợp khẩn cấp đòi hỏi có sự quyết đoán nhanh thì việc mất quá nhiều thời gian cho lựa chọn phản ứng sẽ đem lại bất lợi. Nếu đã có nhiều sự ghi nhớ thì việc quên một số ghi nhớ lại mang ý nghĩa tích cực. Khả năng ghi nhớ tốt, ghi nhớ được nhiều không phải là điều kiện tiên quyết hay điều kiện quan trọng nhất trong hoạt động thần kinh cao cấp. Cái quan trọng nhất là cái cách mà hệ thần kinh thể hiện được những cái đã ghi nhớ. Có những cái đã ghi nhớ chỉ được thể hiện khi có tác động của các yếu tố làm nên sự ghi nhớ đó hoặc các yếu tố tương tự, có những cái ghi nhớ lại được thể hiện khi chịu tác động của các tế bào thần kinh khác đang hoạt động, có những cái được thể hiện khi có tác dụng của các chất kích thích. Trường hợp thể hiện thứ ba thường có tác dụng hỗ trợ cho hai trường hợp trước. Trường hợp thứ nhất thể hiện khả năng hạn chế về tư duy. Hệ thần kinh chỉ hoạt động khi có tác động tư bên ngoài, còn trường hợp thứ hai giúp cho hệ thần kinh có khả năng tư duy và nếu mức độ thể hiện được càng nhiều thì năng lực tư duy càng cao, các ý nghĩ, các hình ảnh của sự tưởng tượng xuất hiện càng nhiều và giúp cho hệ thần kinh tìm được các giải pháp tốt nhất cho phản ứng thần kinh. Khi hệ thần kinh ghi nhớ nhiều và liên kết ghi nhớ là bền chắc thì các ghi nhớ được thể hiện đúng những cái đã làm nên sự ghi nhớ. Sự liên kết ghi nhớ là không có thì các ghi nhớ sẽ không thể hiện đúng như những gì đã xảy ra, câu nói, hình ảnh bị xáo trộn, bị hoán đổi, bị thay thế. Điều này có thể thấy trong các giấc mơ. Một đặc điểm của tư duy sáng tạo là việc làm biến đổi các lời nói, các hình ảnh hay đơn giản là làm khác đi những cái đã có. Sự liên kết không bền giữa các tế bào ghi nhớ có thể giúp cho điều này được thực hiện. Có nghĩa là để có tư duy sáng tạo thì mối liên kết giữa các tế bào thần kinh ghi nhớ dễ bị đứt và thay thế bằng mối liên kết mới với các tế bào ghi nhớ khác. Liên kết ghi nhớ bị đứt thì việc thể hiện ghi nhớ khó được thực hiện (nếu không thiết lập được liên kết mới). Đây là một hình thức quên. Như vậy, liên kết ghi nhớ bền vững và tư duy sáng tạo là hai kẻ đối nghịch nhau. Nếu rèn luyện để hệ thần kinh ghi nhớ tốt (theo nghĩa sự ghi nhớ sẽ thể hiện đúng với những cái làm ghi nhớ hay còn gọi là học thuộc lòng ) thì năng lực tư duy sáng tạo sẽ bị thu hẹp hoặc mất đi, hệ thần kinh chỉ còn là một bộ từ điển hay băng cát-sét. Rèn luyện sự ghi nhớ theo hướng tích cực nhất là rèn luyện bằng hoạt động tư duy của hệ thần kinh chứ không phải bằng cách ôn lại những cái đã ghi nhớ. Rèn luyện bằng cách này sẽ làm cho các ghi nhớ không bị mất đi nhưng liên kết giữa chúng luôn thay đổi và do đó năng lực tư duy sáng tạo được nâng lên, những ghi nhớ chưa được kích hoạt trong trường hợp nào đó sẽ trở thành tiềm thức, chúng tạm thời bị lãng quên và có thể trở thành những cái có giá trị rất cao khi xuất hiện đúng lúc.
Copy từ trang http://thuvienkhoahoc.com