Nguồn: Nông nghiệp Việt nam
Hoàng Anh - Lê Dương -Thứ Năm, 26/04/2012, 12:11 (GMT+7)
Ngày 24/4,
UBND tỉnh Hưng Yên tổ chức cưỡng chế giải phóng mặt bằng bàn giao đất
tại xã Xuân Quan, huyện Văn Giang để thực hiện dự án Khu đô thị Thương
mại – Du lịch Văn Giang (Ecopark). Đúng,
sai về vụ cưỡng chế này xin để các cơ quan pháp luật phán xét, trong
phạm vi bài viết này chúng tôi xin bàn đến góc nhìn khác, đó là sinh kế
người dân mất đất.
Năm trước hô chuyển đổi, năm sau đã thu hồi
Cánh đồng của các xã Xuân Quan, Phụng
Công, Cửu Cao rộng gần 500 ha bao đời trước là đất hai lúa, là niêu cơm
của gần 4.000 hộ dân thuộc ba xã thuần nông. Quãng thời gian những năm
2001-2002, theo tiếng gọi của chính quyền, người dân đồng loạt chuyển
đổi ruộng thành vườn cây, ao cá. Và “cuộc cách mạng” ấy đã rất thành
công. Thời điểm ở các địa phương đang chật vật làm sao để đạt định mức
50 triệu đồng/ha thì ở đây nông dân đã thu về tiền tỷ. Nhiều gia đình
trở thành tỷ phú nhờ chuyển đổi, bộ mặt xóm làng trở nên khang trang nhờ
biến ruộng lúa thành vườn cây cảnh, ao nuôi cá.
Nhà tầng san sát mọc lên, vùng quê này
không thua gì thành phố về khoản đầu tư hạ tầng. Những người tiên phong
đầu tư vào chuyển đổi, là nông dân nhưng nhiều gia đình nuôi 2-3 đứa
con ăn học đại học nhẹ như không. Thậm chí người dân sẵn sàng góp tiền
túi để đầu tư xây dựng đường nông thôn đi… cho sướng. Bản thân chính
quyền các xã Xuân Quan, Phụng Công, Cửu Cao từng được tặng cờ thi đua là
đơn vị chuyển đổi cơ cấu cây trồng xuất sắc. Trong nhiều báo cáo tổng
kết hàng năm, lãnh đạo các xã thường tự hào rằng: “Ở đây, từ đứa trẻ ẵm
ngửa, đến cụ già kề miệng lỗ, thu nhập bình quân đều hơn 1 triệu đồng
một tháng”. Phấn khởi là thế, giàu có là thế, nhưng “cuộc cách mạng”
chẳng kéo dài được lâu. Ngành nông nghiệp của 3 xã thuần nông trên trong
phút chốc bị xóa sổ hoàn toàn chỉ vì một dự án.
Năm 2003, dự án đô thị Văn Giang được
Thủ tướng Chính phủ cho phép thực hiện và giao Công ty Đầu tư và Phát
triển đô thị Việt Hưng làm chủ đầu tư. Đến năm 2004, việc thu hồi đất,
giao đất để thực hiện dự án đô thị và xây dựng đường bộ từ cầu Thanh Trì
đi thị xã Hưng Yên với quy mô 499,07 ha đất thuộc các xã Xuân Quan,
Phụng Công, Cửu Cao bắt đầu triển khai nhưng người dân vẫn chẳng biết
gì.
Đại diện những người dân không giao đất cho DN ở xã Xuân Quan
Họ hoang mang, tá hỏa. Khoảng 3.900 hộ
dân ba xã này rơi vào cảnh mất toàn bộ đất nông nghiệp cho dự án mà
không hề biết là dự án gì, mức đền bù bao nhiêu, mất đất sẽ sống bằng
gì…? “Ban đầu chúng tôi chẳng tin, kéo nhau lên xã hỏi cho ra nhẽ thì
ông Chủ tịch xã bảo là chưa biết gì. Đến khi thấy cắm biển quy hoạch mới
biết là mất đất đến nơi rồi”. Phạm Hoành Sơn, một nông dân mất đất ở xã
Phụng Công nói thật.
Nhớ lại mới một năm trước thời điểm
thu hồi, gia đình Sơn cũng như hàng nghìn hộ nông dân khác còn hăm hở
đầu tư chuyển đổi. Cả tháng trời, hai vợ chồng, 2 đứa con nhà Sơn hầu
hết giành thời gian ở ngoài đồng để biến 2 sào ruộng thành vườn cây, ao
cá. Tiền thuê máy móc, thuê nhân công phải đi vay mượn có lúc lên đến150
triệu đồng.
“Hầu hết nông dân chúng tôi khi chuyển
đổi đều phải đi vay mượn ngân hàng, anh em, làng xóm đổ vào mô hình cả.
Chưa thu hoạch được gì đã bị thu hồi, thử hỏi có chết dân hay không?".
Câu hỏi của Sơn đến nay vẫn chưa ai trả lời. Chỉ biết rằng sau khi nghe
chuyện đất bị thu hồi, nông dân Văn Giang kéo nhau đi kiện lên tận Trung
ương, đơn thư cân lên cả tạ.
Ngay cả việc đất nông nghiệp mất như
thế nào người dân cũng không được biết. Hai năm sau khi có quyết định
thu hồi, tại cuộc họp tiếp dân của Chủ tịch UBND xã Phụng Công năm 2006,
khi người dân hỏi vì sao họ không được biết về dự án thì ông Nguyễn Văn
Tắng, Chủ tịch UBND xã thừa nhận: Về quy hoạch dự án thì cả tôi cũng
không được biết hoặc tham khảo gì cả đâu. Lên cấp trên mà hỏi.
Nỗi đau từ đất
Có khoảng 1.900 hộ dân còn “chống đối”
ở ba xã bị thu hồi đất đều bày tỏ nguyện vọng tiếp tục được giữ đất để
canh tác, hoặc ít nhất cũng xin được bàn bạc, thỏa thuận trước khi bàn
giao. Nhưng nguyện vọng ấy chắc chắn không thể trở thành hiện thực vì
việc cưỡng chế đã được tiến hành. Đêm trước hôm cưỡng chế, người dân ba
xã tập hợp nhau kéo ra đồng dựng lán lên để ngủ. Bởi họ nghĩ, đây có thể
là đêm cuối cùng được sống với ruộng đồng.
Xã Xuân Quan có 1.600 hộ dân bị thu
hồi hơn 100 ha đất nông nghiệp để phục vụ dự án. Hiện còn có 210 hộ chưa
nhận tiền đền bù của nhà đầu tư. Sau khi bị cưỡng chế lần thứ nhất vào
năm 2009, hàng trăm lao động đã bỏ làng đi làm thuê. Lần cưỡng chế lần
này sẽ xóa sổ ngành nông nghiệp của Xuân Quan và tất cả các hộ dân sẽ
không còn đất SXNN.
Máy ủi thực hiện việc cưỡng chế ở Xuân Quan
Mất đất đã đành, những người dân không
chịu nhận tiền ở Văn Giang gặp rất nhiều rắc rối. Ông Kỉnh đang ngồi
trong nhà thì bị côn đồ vác dao vào chém, con gái bà Dơi đi lấy chồng
nhưng chẳng được đăng ký kết hôn vì gia đình chống đối không chịu giao
đất. Những người là đảng viên bị dọa khai trừ, là giáo viên bị dọa luân
chuyển đi nơi khác… “Dân chúng tôi xưa nay hiền lành, không có chuyện
kiện cáo gì đâu. Chỉ từ khi bị mất đất, cảm thấy cuộc sống, tương lai u
ám quá nên phải đi kêu, cũng chỉ mong có cấp nào quan tâm, trả lời cho
chúng tôi câu hỏi: Mất đất nông dân lấy gì để sống? Không có tư liệu sản
xuất chắc chắn bị đẩy vào con đường bần cùng hóa thôi”, bà Đỗ Thị Dơi,
một nông dân mất đất ở xã Phụng Công phàn nàn.
+ Dự án khu đô thị
Văn Giang (Ecopark) được Thủ tướng chấp thuận vào tháng 3/2003 và ban
hành quyết định thu hồi, bàn giao đất vào tháng 6/2004, giao công ty đầu
tư và phát triển đô thị Việt Hưng làm chủ đầu tư. UBND tỉnh Hưng Yên
khẳng định, các chính sách đền bù, hỗ trợ giải phóng mặt bằng đối với dự
án được tỉnh đặc biệt coi trọng.
Theo đó, tính đến thời điểm 2008, các hộ dân chấp hành đúng tiến độ được nhận 135.000 đồng/m2.
Dự án có quy mô xấp xỉ 500ha thuộc ba xã Xuân Quan, Phụng Công, Cửu Cao
và 55ha để làm đường giao thông liên tỉnh Hà Nội – Hưng Yên. Riêng xã
Xuân Quan, nơi diễn ra vụ cưỡng chế sáng 24/4 có 1.720 hộ trong diện
giải tỏa với diện tích hơn 72ha, nhưng vẫn còn 166 hộ chưa chịu giao
đất.
+ “Nếu cơ quan nào
định giá được đất nông nghiệp ở đây mới thấy rõ sự bất công. Một sào
ruộng hàng năm nhiều hộ dân thu về tiền tỷ, trong khi mức thu hồi ban
đầu có hơn 19 triệu rồi lên 36 triệu đồng. Người dân không nghe nên tăng
tiếp thành 48,6 triệu đồng. Có cán bộ tỉnh nói đây là mức giá cao nhất
tỉnh Hưng Yên nhưng nếu so với thu nhập của chúng tôi thì vẫn quá bèo.
Thử hỏi với chừng ấy tiền để đẩy chúng tôi ra đường làm thuê thì chịu
sao nổi”. Nông dân Dũng phân tích.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Cảm ơn những nhận xét đóng góp chân tình