Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đức Quốc Xã, còn được gọi là
Đệ tam Đế quốc hay
Đế quốc thứ ba, là nước
Đức trong giai đoạn
1933-
1945 dưới chế độ của
Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa (
tiếng Đức:
Nationalsozialistische Deutsche Arbeiterpartei, gọi tắt
Nazi), tiếng Việt gọi tắt theo cách tương tự là Đảng Quốc xã, với Lãnh tụ (
Führer) là
Adolf Hitler.
"Đế quốc thứ ba" là từ
tiếng Đức Drittes Reich
và thường được dùng để chỉ chính quyền và chính sách điều hành chứ
không phải đất nước và con người. Cụm từ này được dùng đầu tiên vào năm
1922 trong tên một quyển sách của tác giả
Arthur Moeller van den Bruck. Các nhà tuyên truyền Đức Quốc xã sau này dùng thuật ngữ này vì họ tính
đế quốc La Mã Thần thánh là đế quốc thứ nhất,
Đế quốc Đức
(1871-1918) thứ hai, và chế độ của Quốc xã là đế quốc thứ ba. Ý niệm
này được dùng để gợi ý sự trở lại của một thời huy hoàng sau sự thất bại
của
Cộng hòa Weimar. Sự hỗn loạn và nghèo nàn gây ra do sự sụp đổ của
thị trường Wall Street đã cho phép Đảng Quốc xã chiếm quyền một cách dễ dàng và lợi dụng tâm lý của những kẻ thù cũ không còn muốn đổ máu nữa.
Đế quốc thứ ba có khi còn được gọi là "Đế quốc nghìn năm" vì những
nhà thành lập có nguyện vọng là nó được đứng vững trong một nghìn năm
như
đế quốc La Mã Thần thánh.
Đảng Quốc xã đã cố gắng kết hợp những biểu tượng Đức truyền thống với
những biểu tượng của đảng này để làm người ta tin rằng cả hai là một.
Như thế, Đức Quốc xã đã dùng cụm từ "Đế quốc thứ ba" và "Đế quốc nghìn
năm" để nối quá khứ huy hoàng của Đức với một tương lai mà họ hứa hẹn
cũng sẽ huy hoàng. Lúc đầu kế hoạch của Hitler đang đà trở thành sự
thật. Trong lúc tột đỉnh, Đức quốc xã kiểm soát phần lớn lãnh thổ
châu Âu. Tuy nhiên, sau khi thua lực lượng
Đồng Minh trong
Đệ nhị thế chiến, "Đế quốc nghìn năm" đã sụp đổ chỉ sau 12 năm tồn tại (từ 1933 đến 1945).
Trong 12 năm cầm quyền, Đức Quốc xã đã đưa quân đội chiếm đóng khắp lục địa châu Âu (trừ
Thụy Sĩ,
Liechtenstein,
Thụy Điển,
Bồ Đào Nha và vùng đất gần
dãy núi Ural). Trong việc này, Đức Quốc xã tính sẽ tạo ra một Nhà nước Đại Đức với
Berlin
(đổi tên thành Germania) làm thủ đô, và hợp nhất tất cả những người có
gốc Đức chính cống. Chính sách này đã dẫn đến cái chết của 11 triệu
người trong các dân tộc thiểu số và các nhóm bị xã hội ruồng bỏ, cũng
như làm chết hàng chục triệu người trực tiếp hay gián tiếp vì các trận
đánh.
Bước khởi đầu: 1919-1933
-
Bước khởi đầu của Đức Quốc Xã gắn liền với bước đi lên của Hitler, và qua đó là sự hình thành của
Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa tức Đảng Quốc xã.
Bước khởi đầu của Đảng Quốc xã
Sau khi trở về từ
Thế chiến I, do tình cờ một ngày tháng 9 năm 1919, Hitler được mời gia nhập
Đảng Lao động Đức. Lúc ấy, đảng này có không đến 100 đảng viên. Hitler trở thành Ủy viên Trung ương thứ bảy của Đảng Lao động Đức.
Đầu năm
1920, Hitler nắm nhiệm vụ tuyên truyền cho đảng. Trong đại hội đảng ngày
24 tháng 2
năm 1920, lần đầu tiên Hitler công bố Cương lĩnh Đảng Quốc xã gồm 25
điểm. Những điểm quan trọng nhất sẽ được Đức Quốc xã mang ra thi hành
khi đang nắm chính quyền 13 năm sau. Bốn điểm quan trọng là: xóa bỏ các
Hòa ước Versailles và
Hòa ước Saint-Germain, thiết lập một quyền lực trung ương mạnh cho Nhà nước, hợp nhất mọi người Đức trong một nước Đức mở rộng, và chủ trương
bài Do Thái.
Đây đúng là những việc mà Hitler thực hiện một cách nghiêm túc khi
lên nắm chính quyền sau này cho đến cuối đời ông. Một trong những điều
bất hạnh cho thế giới là có quá nhiều người trong giai đoạn giữa hai
cuộc thế chiến đã bỏ qua hoặc chế giễu mục đích này của Quốc xã mà
Hitler đã cất công ghi trên giấy trắng mực đen.
Vào mùa hè 1920, Hitler thêm cụm từ "Quốc gia Xã hội Chủ nghĩa" vào
cái tên "Đảng Công nhân Đức" để trở thành đảng có tên viết tắt là NSDAP.
Đến mùa hè 1921, Hitler nắm quyền lãnh đạo độc tôn của đảng. Tháng 7
năm 1921, "nguyên tắc lãnh đạo" được thiết lập, trở thành điều luật
trước nhất cho Đảng Quốc xã và sau đấy cho Đế quốc thứ ba.
Kim chỉ nam của Đức Quốc xã: Mein Kampf
-
Sau vụ
Đảo chính Nhà hàng Bia ngày
8 tháng 11 năm 1923, Hitler phải vào tù. Trong thời gian này, ông viết quyển
Mein Kampf
trình bày về tư tưởng và cương lĩnh hoạt động của ông. Tóm tắt, Đức
Quốc xã sẽ là một quốc gia thuộc loại mới, dựa trên sự thuần khiết chủng
tộc và quy tụ mọi người Đức lúc này còn đang sống bên ngoài biên giới
Đức. Trong quốc gia đó sẽ thiết lập chế độ độc tài tuyệt đối dưới quyền
một Lãnh tụ – chính là Hitler – để ban hành mệnh lệnh cho một tầng lớp
lãnh đạo nhỏ hơn, rồi những người này sẽ truyền lệnh xuống bên dưới. Dần
dà, Đức sẽ trở nên "chủ nhân ông của thế giới". Đức sẽ bành trướng về
miền Đông, nếu cần phải chiếm lấy đất của
Nga.
Câu ghi trên bia là:
Meine Ehre heißt Treue
Tiếng Việt: Danh dự của tôi có tên là lòng trung kiên
Từ đó, dẫn đến tư tưởng chủ chốt thứ hai: chủng tộc.
Người Đức, thuộc chủng tộc
Aryan,
là chủng người ưu việt. Nếu muốn vượt lên trên thì người Đức phải đàn
áp những chủng tộc khác, đó là Do Thái và các dân tộc Slav. Phải ngăn
cấm hôn nhân giữ người Đức với người của các chủng tộc đó. Sự ám ảnh về
chủng tộc khiến cho Hitler cổ vũ một quốc gia thuần chủng nhằm bảo tồn
những thành phần chủng tộc nguyên thủy. Chỉ người khỏe mạnh mới được có
con. Yêu cầu tạo nên quốc gia thuần chủng không cho phép dân chủ, mà
phải có chế độ độc tài.
Trong tác phẩm này, Hitler hết sức thán phục
Vương quốc Phổ anh dũng năm xưa.
[3]
Kế hoạch của ông ta ghi trong quyển sách đã quá rõ ràng và chính xác.
Pháp sẽ bị tiêu diệt, nhưng tiến về Đông mới là mục tiêu chính yếu.
Trước nhất, phải chiếm lấy những miền đất ở phía Đông có nhiều người Đức
sinh sống: nước Áo, miền
Sudetenland ở
Tiệp Khắc và miền tây
Ba Lan kể cả
Danzig. Sau đấy là chính nước Nga. Khi lên nắm quyền, Hitler đã thực hiện đúng như thế.
Khi Hitler thi hành những chính sách diệt chủng ở Đông Âu trong chiến
tranh, mọi người phải công nhận rằng việc làm của ông ta đi đôi với lời
nói: mọi hành động đều đã được ghi trong quyển sách.
William L. Shirer, tác giả lịch sử Đức Quốc xã nhận xét rằng
“ |
Nếu có nhiều người Đức không theo Quốc xã đọc quyển "Mein Kampf"
trước năm 1933 và nếu các chính khách trên thế giới đọc cẩn thận quyển
sách, thì cả nước Đức và thế giới hẳn đã có thể tránh khỏi thảm họa. Bởi
vì, tuy người ta có thể kết tội Adolf Hitler về việc gì khác, không ai
có thể lên án ông ta đã không viết ra trên giấy trắng mực đen chính xác
mô hình của Đức Quốc xã mà ông ta định tạo dựng. |
” |
—William L. Shirer
|
Hitler xây dựng Đảng Quốc xã
Bích chương bầu cử của
NSDAP (
Đảng Quốc Xã Đức) vào năm
1932.
(
Dân lao động chúng tôi đã thức tỉnh! Chúng tôi bầu cho Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa!).
Sau khi ra khỏi tù, nhờ tài tổ chức, Hitler lao vào công việc tái lập
Đảng Quốc xã và biến nó thành một tổ chức mà Đức chưa hề thấy từ trước
đến giờ. Ông có ý đồ tổ chức đảng như là một quân đội – một nhà nước
trong một nhà nước. Vào cuối năm 1925, Quốc xã chỉ có 27.000 đảng viên.
Đảng phát triển một cách chậm chạp, nhưng mỗi năm đều có tiến bộ: 49.000
đảng viên năm 1926; 72.000 năm 1927; 108.000 năm 1928; 178.000 năm
1929. Binh sĩ SA được tổ chức lại thành một lực lượng vũ trang gồm vài
trăm nghìn người để bảo vệ buổi họp của Quốc xã, giải tán buổi họp của
đối thủ và nói chung khủng bố người chống lại Quốc xã.
Để được sự hỗ trợ đáng tin cậy hơn, Hitler thành lập lực lượng SS –
Schutzstaffel
còn gọi là "Quân Áo đen" – và buộc họ phải cất lời thề trung thành với
chính cá nhân ông. Lúc đầu, lực lượng SS chỉ là những cận vệ cho Hitler.
Đến năm 1929, Hitler tìm ra được người lãnh đạo lý tưởng của SS:
Heinrich Himmler. Dần dà, Himmler nắm quyền sinh sát trên toàn nước Đức và phần lớn Châu Âu.
Đức chuyển qua chế độ Quốc xã: 1933-1934
Sau khi tướng
Kurt von Schleicher thất bại trong việc lập chính phủ cộng với áp lực của cựu thủ tướng
Franz von Papen, ngày
30 tháng 1 năm
1933, Tổng thống
Paul von Hindenburg bổ nhiệm Hitler làm thủ tướng. Tuy đảng Đức quốc xã được số phiếu cao nhất trong cuộc bầu cử
Reichstag (Nghị viện) năm
1932,
họ vẫn không đủ phiếu để thành phe đa số trong nghị viện. Nội các
Hitler chỉ có hai đảng Quốc xã và Quốc gia, cả hai chỉ chiếm 247 ghế
trong tổng số 583 ghế Nghị viện. Để đạt đa số, họ cần sự hậu thuẫn của
Đảng Trung dung Đức với 70 ghế. Vì thế, Hitler đề xuất Tổng thống giải
tán Nghị viện và quy định kỳ tổng tuyển cử mới, được ấn định vào ngày 5
tháng 3 năm 1933.
Chế độ độc tài
Kết quả cuộc tổng tuyển cử thứ 9
của Cộng hòa Weimar, ngày 5 tháng 3 năm 1933
Đảng |
% số phiếu |
Số ghế |
% số ghế |
Nazi (Phát xít) (NSDAP) |
43,9% |
288 |
44,5% |
Dân chủ Xã hội (SPD) |
18,3% |
120 |
18,5% |
Cộng sản (KPD) |
12,3% |
81 |
12,5% |
Trung tâm (Công giáo) |
11,2% |
74 |
11,4% |
DNVP (Bảo thủ) |
8,0% |
52 |
8,0% |
Nhân dân Bavaria (BVP) |
2,7% |
18 |
2,8% |
Dân chủ (DDP) |
0,9% |
5 |
0,8% |
Các đảng khác |
2,7% |
9 |
1,5% |
Tổng cộng |
100,0% |
647 |
100,0% |
.
Chính quyền mới trở thành một chế độ độc tài sau khi Nghị viện liên tục đưa ra một số luật mới. Ngày
27 tháng 2 năm
1933,
Hermann Göring dàn cảnh trận hoả hoạn tại Toà nhà Nghị viện (
Reichstag).
Một ngày sau vụ cháy, 28 tháng 2, Hitler yêu cầu Tổng thống ký nghị
định "Cho việc Bảo vệ Nhân dân và Nhà nước" đình chỉ bảy đoạn trong Hiến
pháp đảm bảo quyền tự do cá nhân. Được mô tả là "biện pháp phòng vệ
chống lại những hành động bạo lực của Cộng sản phương hại đến đất nước".
Nghị định này mang nội dung:
- Hạn chế tự do cá nhân, quyền tự do phát biểu ý kiến, kể cả quyền
tự do báo chí; quyền tụ tập và lập hiệp hội; và những sự vi phạm tính
riêng tư của thư tín, điện tín và điện thoại; và giấy phép lục soát nhà,
lệnh tịch thu cũng như hạn chế về tài sản, cũng được cho phép vượt quá
những quy định khác.
Thêm nữa, Nghị định còn cho phép chính phủ Đế quốc hành xử mọi quyền
hạn của các bang khi cần thiết, và áp dụng hình phạt tử hình cho một số
tội danh, kể cả tội "làm mất trật tự trị an một cách nghiêm trọng" do
người có vũ trang.
Thế là Quốc xã đã có thể bịt miệng đối thủ một cách hợp pháp và bắt giữ họ tùy ý, bằng cách mang hiểm họa của
cộng sản ra hù dọa, để gây sợ hãi cho hàng triệu người giới trung lưu và nông dân là nếu họ không bầu cho Quốc xã vào tuần sau, người
Bolshevik sẽ chiếm quyền lực.
Trong cuộc bầu cử Reichstag kế tiếp vào ngày
5 tháng 3
năm 1933, đảng Đức quốc xã giành được 43,9% số phiếu. Tuy thế, 52 ghế
của Đảng Nhân dân Quốc gia Đức cộng với 288 ghế của Quốc xã đủ để vượt
đa số 16 ghế cho chính phủ.
Ngày
23 tháng 3 năm 1933, Reichstag kết thúc
Cộng hoà Weimar khi nghị viện này thông qua Luật Trao quyền (
Ermächtigungsgesetz),
có tên chính thức là "Luật Phòng chống tai họa của nhân dân và đế
quốc." Luật tước đoạt quyền lập pháp của Nghị viện kể cả quyền kiểm soát
ngân sách Đế quốc, phê chuẩn hiệp ước với nước ngoài và tu chính hiến
pháp, và trao các quyền này cho nội các trong thời hạn bốn năm. Thêm
nữa, Luật Trao quyền quy định Thủ tướng sẽ soạn thảo và ban hành luật
mới "có thể dị biệt với hiến pháp." Thế là, nền dân chủ nghị viện rốt
cuộc đã bị chôn vùi. Hiến pháp Weimar không còn nghĩa lý gì nữa, vì
Hitler có quyền ban hành luật "dị biệt".
Chế độ độc đảng
Đảng Cộng sản bị dẹp bỏ ngay sau vụ cháy Tòa nhà Nghị viện mà họ bị
quy kết. Các đảng thuộc giới trung dung: Trung dung Đức, Nhân dân Quốc
gia Đức, Dân chủ đều giải tán trong tuần lễ đầu tháng 7 năm 1933. Riêng
Đảng Nhân dân Quốc gia Đức, dù đã hỗ trợ Hitler lên nắm quyền một cách
hợp lệ và dù có quan hệ mật thiết với
Paul von Hindenburg, giới
địa chủ quý tộc và các doanh nghiệp lớn, vẫn tiếp nối các đảng khác mà "tự nguyện" giải tán.
Bích chương tuyển mộ của lực lượng
Waffen-SS.
(
Tòng quân sau 17 tuổi).
Chỉ còn lại Đảng Quốc xã. Ngày 14 tháng 7 năm 1933, một luật mới quy định:
- Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa là đảng chính trị duy nhất ở Đức.
- Bất kỳ người nào duy trì cơ cấu tổ chức của một đảng chính trị
khác hoặc thành lập một đảng chính trị mới sẽ bị phạt với mức án đến ba
năm khổ sai hoặc với án tù giam từ sáu tháng đến ba năm, nếu hành động
không chịu hình phạt cao hơn chiếu theo quy định khác.
Nhà nước chuyên chế độc đảng đã được hoàn thiện mà không có mấy hành
động chống đối hoặc phản kháng, và chỉ trong vòng 4 tháng sau khi Nghị
viện từ bỏ mọi trách nhiệm dân chủ.
Chế độ trung ương tập quyền
Ngày 7 tháng 4 năm 1933, Hitler cử Thống đốc Quốc xã ở mọi bang, giao
quyền cho họ chỉ định và dẹp bỏ cơ cấu chính quyền bang, giải tán nghị
viện cấp bang, bổ nhiệm và cách chức công nhân viên và thẩm phán của
bang. Trong vòng nửa tháng từ khi nhận quyền hành từ Nghị viện, Hitler
đã hoàn tất những việc mà nước Đức chưa bao giờ làm được: xóa bỏ mọi
quyền hạn của bang vốn đã tồn tại lâu đời, đưa vào chế độ trung ương tập
quyền. Cũng không còn cảnh sát bang, quân đội bang – tất cả các lực
lượng vũ trang đều thuộc trung ương.
Ngày
30 tháng 1 năm
1934, chính quyền củng cố quyền bằng đạo luật xây dựng lại đế quốc (
Gesetz über den Neuaufbau des Reichs).
Đạo luật này biến chính phủ liên bang phân quyền của Đức thời Weimar
thành một nhà nước trung ương tập quyền. Nó giải tán nghị viện quốc gia,
chuyển đổi quyền lực tối cao thành chính phủ đế quốc trung ương tập
quyền và đặt bộ máy hành chính quốc gia dưới sự kiểm soát của bộ máy
hành chính
Đế quốc Đức.
Quốc xã nắm lấy Quân đội
Tham mưu trưởng
Ernst Röhm của lực lượng
SA,
hiện đã lên đến nửa triệu người, đề xuất với nội các là lực lượng SA
phải là nền tảng cho Quân đội Nhân dân mới, và toàn bộ Quân đội, SA và
SS
được đặt dưới Bộ Quốc phòng mà ông ngụ ý sẽ do mình đứng đầu. Giới lãnh
đạo Quân đội đồng lòng phản đối và kêu gọi Hitler ủng hộ họ.
Duyệt binh nhân dịp Reichsparteitag (
Đại hội Đảng Quốc gia) năm
1935.
Vào lúc này, Hitler rất cần quân đội, thế nên ông không chấp nhận đề
xuất của Röhm. Đến mùa hè 1934, quan hệ giữa Röhm và quân đội càng tồi
tệ hơn. Hitler nhận thức rõ ràng ông chỉ nắm được quyền lực nếu có sự
ủng hộ của tướng lĩnh. Ngày 11 tháng 4 năm 1934. Hitler thông báo cho
hai chỉ huy Lục quân và Hải quân về tình trạng sức khỏe ngày càng tồi tệ
của Tổng thống, và thẳng thừng đề nghị là mình sẽ lên thay thế. Để đáp
lại sự ủng hộ của quân đội, Hitler hứa sẽ trấn áp đội quân SA và đảm bảo
rằng quân đội vẫn là lực lượng vũ trang duy nhất.
Trong nội bộ Đảng Quốc xã nổi lên một cuộc tranh giành quyền lực mới không khoan nhượng.
Hermann Göring và
Heinrich Himmler
cùng liên kết với nhau để chống lại Röhm. Hai người có ý định thanh
trừng đám SA, quét sạch các đối thủ ở cánh tả lẫn cánh hữu, kể cả những
người lúc trước chống đối Hitler nhưng bây giờ không còn hoạt động.
Hitler kết tội Röhm bắt đầu "các bước chuẩn bị để đích thân triệt hạ
tôi". Điều này hầu như không có thực. Mặc dù có lẽ ta không bao giờ biết
được toàn bộ vụ việc, các chứng cứ có sẵn đều cho thấy Röhm không bao
giờ âm mưu lật đổ Hitler.
Muốn giữ những mối quan hệ tốt với quân đội, đêm ngày
30 tháng 6 năm
1934,
Hitler đã bật đèn xanh cho cái mà về sau được gọi là "Đêm của những con
dao dài", nghĩa là một cuộc thanh trừng đẫm máu trong hàng ngũ lãnh đạo
SA cũng như cũng như các cá nhân đối lập khác, thay thế nó bằng một tổ
chức trung kiên hơn là cơ quan SS của Đức quốc xã. Ngay sau đó, các lãnh
đạo quân đội đã tuyên thệ trung thành với Hitler.
- Xem chi tiết: Đêm của những con dao dài
Sau khi cuộc thanh trừng kết thúc, Hitler tuyên bố rằng ông chính là
pháp luật, như phát biểu trước Nghị viện ngày 13 tháng 7 năm 1934:
- Nếu có ai trách tôi và hỏi tại sao tôi không vận dụng tòa án tư
pháp, thì tôi chỉ có thể trả lời: "Trong thời khắc này tôi có trách
nhiệm đối với vận mệnh của dân tộc Đức, và qua đó tôi trở thành chánh án
tối cao của dân tộc Đức."
Và Hitler thêm, với đầy ẩn ý:
- Trong tương lai mọi người nên biết rằng nếu họ ra tay chống lại Nhà nước, chắc chắn họ sẽ bị xử tử.
Đấy là lời cảnh cáo sẽ được áp dụng xuyên suốt chế độ Đức Quốc xã cho tất cả những ai dám chống đối Lãnh tụ Hitler.
Hitler làm Lãnh tụ Đức Quốc xã
Ngày
2 tháng 8
năm 1934, Tổng thống Hindenburg qua đời, hưởng thọ 87 tuổi. Vào giữa
trưa, có thông báo là theo một luật mới do nội các ban hành ngày hôm
trước, hai chức vụ Thủ tướng (
Reichskanzler) và Tổng thống (
Reichspräsident)
được nhập lại làm một, và Adolf Hitler đã nhậm chức lãnh đạo đất nước
kiêm Tư lệnh Tối cao Quân lực. Chức vụ Tổng thống bị bãi bỏ; Hitler
chính thức là Lãnh tụ và Thủ tướng Đế quốc (
Führer und Reichskanzler).
Hitler tổ chức cuộc trưng cầu dân ý về việc Hitler đảm nhận chức Tổng
thống ngày 19 tháng 8 năm 1934. khoảng 95% cử tri Đức đi bỏ phiếu; 90%
tức hơn 38 triệu người chấp thuận cho Hitler chiếm mọi quyền lực. Chỉ có
4 triệu rưỡi người Đức có can đảm – hoặc có ước nguyện – nói "Không".
Trong Đại hội Đảng Quốc xã nhóm họp ở
Nürnberg ngày 5 tháng 9, Thị trưởng
Bayern đọc lời tuyên cáo của Lãnh tụ:
- Vận mệnh mới của dân tộc Đức được xác định chắc chắn trong 1.000
năm tới... Sẽ không cần có cuộc cách mạng nào khác ở Đức trong 1.000 năm
nữa!
Đời sống của nước Đức dưới chế độ Quốc xã
-
Nói chung, đại đa số người Đức dường như không cảm thấy phiền hà khi
bị tước mất quyền tự do, khi nhiều nét văn hóa bị hủy hoại và được chế
độ tàn bạo thay thế, hoặc khi cuộc đời và công việc của họ bị uốn nắn
vào nề nếp đến mức chặt chẽ chưa từng có. Sự khủng bố Quốc xã trong
những năm đầu chỉ ảnh hưởng đến một số tương đối ít người. Người nước
ngoài mới đến có phần ngạc nhiên thấy là người dân Đức dường như không
cảm thấy rằng họ đang bị thị uy và đàn áp. Ngược lại, họ còn ủng hộ chế
độ Đức Quốc xã này với lòng sốt sắng chân thực. Trong nhận thức của họ,
chế độ đã đem lại cho họ niềm hy vọng mới, sự tự tin mới, lòng tin vào
tương lai của đất nước họ.
Dưới sự khuyến khích của Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền Goebbels, Đức Quốc
Xã cũng làm phim nói về nước Phổ năm xưa, các phim này thương có nội
dung nói đến vua
Friedrich Wilhelm I và con trai của ông là vị vua kiệt xuất
Friedrich II Đại Đế,
[4] hoặc về cuộc tranh đấu kiên cường của danh tướng
August Neidhardt von Gneisenau chống quân
xâm lược Pháp của
Napoléon.
[5] Chẳng hạn như các bộ phim "Der alte und der junge König" (1935), "Der Grosse König" (1942) và Kolberg (1945).
[6]
Thời đó, có truyền đơn nổi tiếng của nước Đức cho thấy Hitler là
chính khách mới nhất trong một loạt các chính khách xuất sắc của nước
Đức, sau vua
Friedrich II Đại Đế, Thủ tướng
Otto von Bismarck và Tổng thống
Paul von Hindenburg.
Thực chất, chế độ độc tài Đức Quốc Xã của ông ta không hề là sự nối
tiếp của truyền thống Phổ xưa. Những người lên nắm quyền thường phải tự
bảo mình là "con cháu người xưa" để có được quyền thống trị hợp pháp. Sử
học của Đảng Quốc Xã về lịch sử vinh quang của nước Phổ cũng thường
chọn lựa tình tiết mà viết, và viết không đến nơi đến chốn, móp méo.
[7]
Đệ nhị thế chiến
-
Vào năm 1939, các hành động của Đức Quốc Xã dẫn tới sự bùng phát cuộc
Thế chiến thứ hai ở châu Âu.
Ba Lan,
Pháp,
Đan Mạch,
Na Uy,
Bỉ và
Hà Lan bị chiếm đóng. Ban đầu,
Anh
chỉ dùng một ít tiềm lực nhằm giúp đỡ các đồng minh của họ ở châu Âu,
nhưng Đức lại định chinh phục Anh bằng cách ném bom dữ dội vào Anh trong
Trận chiến nước Anh. Sau khi xâm chiếm
Hy Lạp và
Bắc Phi, Quân đội Đức tấn công
Liên Xô tháng 6 năm 1941 và
tuyên chiến với
Hoa Kỳ vào tháng 12 sau khi
Nhật Bản ném bom vào
Trân Châu Cảng.
Tiếp tục chế độ khủng bố
Sự khủng bố các nhóm cư dân thiểu số vẫn tiếp tục cả bên trong nước
Đức và những vùng lãnh thổ bị họ chiếm đóng. Từ năm 1941 người
Do Thái bị buộc phải đeo một ngôi sao vàng khi ra ngoài đường và đa số họ bị tống tới các khu dành cho người Do Thái (
ghetto), nơi họ bị cách ly khỏi xã hội. Tháng 1 năm 1942, tại
Hội nghị Wannsee dưới sự giám sát của
Reinhard Heydrich, một kế hoạch để tìm ra "
giải pháp cuối cùng cho vấn đề Do Thái" (tiếng Đức:
Endlösung der Judenfrage)
ở châu Âu được đề ra. Trong giai đoạn này, khoảng 6 triệu người Do Thái
và nhiều nhóm người khác, gồm cả những người đồng tính,
người Slav
và tù chính trị đã bị giết hại một cách có hệ thống và hơn 10 triệu
người bị buộc phải lao động nô lệ, cuộc diệt chủng này được gọi là
Holocaust trong
tiếng Anh,
Shoah trong
tiếng Hebrew (Đức quốc xã sử dụng cách nói trại trong tiếng Đức với từ
Endlösung - "Giải pháp cuối cùng."). Hàng ngày có hàng nghìn người bị đưa tới các
nhà máy giết chóc, các
trại tập trung (tiếng Đức:
Konzentrationslager
- KZ), ban đầu là các trung tâm được lập ra để giam giữ tù nhân, sau đó
trở thành các nhà máy giết người hàng loạt, được thiết kế để giết hại
tù nhân.
- Xem hoạt động khủng bố của các tổ chức và chỉ huy: Sicherheitsdienst - Sở An ninh, viết tắt SD; Gestapo - Geheime Staatspolizei - Mật vụ; Schutzstaffel - viết tắt SS; Heinrich Himmler; Einsatzgruppen - Đội Đặc nhiệm - là các đội biệt kích thành lập bởi Heinrich Himmler do SS chỉ huy bao gồm các thành viên của Ordnungspolizei, Waffen-SS, Gestapo, Kripo, và SD gồm bốn đội bán quân sự A, B, C và D được tuyển chọn đặc biệt phục vụ cho việc sát hại người Do Thái, các chính ủy Liên Xô, các dân tộc Slav ở Đông Âu...
Song song với những trại tập trung, Đức Quốc Xã tiến hành một chương
trình tàn bạo nhằm chinh phục, thực dân hóa và khai thác những vùng đất
Liên bang Xô viết,
Ba Lan và sắc dân Slav được gọi là
Kế hoạch tổng thể Ost. Ước tính 20 triệu thường dân
Liên bang Xô viết, 3 triệu người
Ba Lan không thuộc chủng tộc
Do Thái, 7 triệu binh sĩ
Hồng quân Liên Xô đã chết trong cuộc
chiến tranh Xô-Đức mà người Nga gọi là
Cuộc Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại. Mục tiêu của Đức quốc xã là nhằm mở rộng
Lebensraum ("không gian sinh sống") của chủng tộc Đức về phía Đông nhưng lý do để họ khai chiến ở Đông Âu là để "tự vệ trước
chủ nghĩa Bolshevik".
Quân đội Đức bị đánh tan tác tại Bắc Phi.
[8] Sau khi thất bại tại các
trận Stalingrad năm 1943 và
trận Normandy năm 1944, chế độ này bắt đầu tan rã nhanh chóng, mất đất vào tay Quân đội
Đồng Minh ở phía tây và phía nam và vào tay
Hồng quân Liên Xô và quân Ba Lan ở phía đông. Vào
tháng 7 năm
1944, một nhóm Sĩ quan âm mưu
ám sát Quốc trưởng Hitler.
[9] Tới mùa xuân năm 1945, Quân đội Đồng Minh đã tiến vào lãnh thổ Đức.
Adolf Hitler luôn đề cao vị vua - chiến binh năm xưa
Friedrich II Đại Đế, dù rằng chế độ của ông ta không giống với nhà nước của vị vua này. Nhân dân
Phổ có được một lịch sử vinh quang gắn liền với
chủ nghĩa anh hùng
của ông. Thậm chí, khi trú ở boong-ke sâu 16 mét dưới đường phố thủ đô
Berlin, Hitler chỉ trang hoàng nơi này với bức chân dung vua Friedrich
II Đại Đế do họa sĩ
Anton Graff thực hiện. Cuối tháng 2 năm 1945, Hitler nói với tướng Guderian:
[7]
“ |
Bức tranh này luôn luôn đem lại cho tôi sức mạnh khi những hung tin đe dọa tới tinh thần của tôi. |
” |
—Adolf Hitler
|
Cuộc tự hủy hoại không thành
Khi Quân đội
Đồng Minh đang áp sát đến thủ đô
Berlin, Quốc trưởng
Hitler
đã đưa ra một trong những quyết định quan trọng cuối cùng trong đời.
Ngày 19 tháng 3 năm 1945, ông ra lệnh phá hủy tất cả các cơ sở quân sự,
công nghiệp, giao thông và viễn thông cùng toàn bộ các cửa hàng trên đất
Đức để tránh rơi vào tay quân địch.
Bộ trưởng Khí tài và Vũ trang
Albert Speer
đã tiên liệu về một chỉ thị tàn bạo như thế từ những cuộc họp trước đây
với Hitler nên ông đã soạn một bản ghi nhớ hùng hồn để chống lại hành
động này và lặp lại biện luận của ông là nước Đức đã thua trận. Chính
ông đã trình bản ghi nhớ này cho Hitler vào ngày 18 tháng 3. Trong đó,
Speer viết:
“ |
Có thể chắc chắn là chỉ trong vòng 4 đến 8 tuần, kết cuộc nền kinh
tế sẽ sụp đổ... Sau sự sụp đổ này, không thể tiếp tục cuộc chiến dù
bằng cách thức quân sự... Chúng ta phải làm mọi cách để duy trì sự tồn
tại của đất nước cho đến người cuối cùng, dù bằng biện pháp sơ khai
nhất... Vào giai đoạn này của cuộc chiến, chúng ta không có quyền tiến
hành sự phá hủy vốn có thể ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân. Nếu kẻ
thù của chúng ta muốn hủy diệt đất nước này, đất nước đã chiến đấu một
cách anh dũng, một mình họ sẽ phải chịu ô nhục với lịch sử. Chúng ta có
bổn phận phải để lại cho đất nước tất cả khả năng có thể để tái thiết
trong tương lai xa... |
” |
—Albert Speer
|
Nhưng với số phận cá nhân đã bị khép lại,
Hitler không quan tâm đến sự tồn tại của dân tộc Đức mà ông đã luôn bày tỏ tình yêu thương bất tận. Ông nói với Speer:
“ |
Nếu ta thất trận,
đất nước cũng sẽ tàn lụi. Số phận như thế là không thể tránh khỏi. Không
cần xem xét điều kiện cơ bản mà người dân sẽ cần đến để tiếp tục cuộc
sống sơ khai. Ngược lại, tốt hơn là tự ta nên tiêu hủy những thứ ấy bởi
vì đất nước này đã biểu hiện là phía yếu hơn và tương lại sẽ tùy thuộc
vào đất nước miền đông mạnh hơn (Liên Xô). Hơn nữa, những người sống sót sau trận chiến chỉ là những người hạ đẳng, vì những người tốt đã chết. |
” |
—Adolf Hitler
|
Ngày hôm sau, Hitler ra chỉ thị nổi tiếng về "vườn không nhà trống".
Tiếp theo là mệnh lệnh được ban hành vào ngày 23 tháng 3 bởi
Martin Bormann, bí thư của Hitler. Speer mô tả sự kiện này trước
Tòa án Nürnberg:
- Lệnh của Bormann nhắm đến việc mang người dân cùng công nhân và
tù binh người nước ngoài từ hai miền Đông và Tây vào vùng trung tâm của
Đế quốc. Hàng triệu người này sẽ phải đi bộ. Xét qua tình hình hiện tại,
không thể cung cấp thứ gì cho họ sinh tồn... Việc này có thể dẫn đến
thảm họa đói kém không tể tưởng tượng nổi.
Nếu tất cả mệnh lệnh khác của Hitler và Bormann được mang ra thi
hành, hàng triệu người Đức có thể chết. Speer cố tóm tắt trước Tòa án
Nürnberg các mệnh lệnh "vườn không nhà trống" khác nhau. Ông nói, phải
phá hủy
tất cả nhà máy công nghiệp, tất cả cơ sở điện quan trọng, nhà
máy nước, nhà máy cung cấp khí đốt, các cửa hàng thực phẩm và cửa hàng
quần áo; tất cả các cây cầu, tất cả cơ sở đường sắt và thông tin, tất cả
kênh đào, tất cả tàu thuyền, tất cả toa tàu chở hàng hóa và tất cả đầu
máy xe lửa.
Người dân Đức tránh khỏi thảm họa cuối cùng này được là do những nỗ
lực phi thường của Speer và một số sĩ quan Quân đội (cuối cùng) đã chống
lệnh Hitler. Họ đã tỏa ra khắp nước Đức để đảm bảo các sĩ quan quân đội
và đảng viên phục tòng một cách cuồng tín không thực thi phá hủy những
cơ sở ấy. Một phần cũng nhờ sự tiến quân thần tốc của lực lượng
Đồng Minh khiến cho công tác phá hủy trên diện rộng như thế là bất khả thi.
Những ngày cuối cùng của Đức Quốc xã
Hitler đã định rời Berlin vào ngày
20 tháng 4
năm 1945, sinh nhật thứ 56 của ông, để đi Obersalzberg và chỉ đạo cuộc
chiến từ nơi này. Phần lớn nhân viên các bộ đã di tản về phía nam trên
những xe tải chất đầy tài liệu, nhiều quan chức khác cũng hối hả tìm
cách rời Berlin.
Tuy nhiên, hồi kết đến nhanh hơn là Hitler dự tính.
Hồng quân Liên Xô và quân
Mỹ đang tiến nhanh đến một giao lộ bên bờ
sông Elbe. Liên quân Anh - Canada đang đến sát
Hamburg và
Bremen, chuẩn bị tách rời nước Đức khỏi
Đan Mạch. Ở
Ý, quân Đồng Minh đã chiếm
Bologna và đang tiến đến thung lũng
Po. Sau khi chiếm được
Viên ngày 13 tháng 4, Hồng quân Liên Xô tiến lên
sông Donau, còn Đại đoàn thứ Ba của Mỹ đang tiến xuống dọc con sông này để bắt tay với họ tại sinh quán
Linz của Hitler.
Trong "Tuyên cáo Chính trị" trước khi tự sát, Hitler tuyên bố:
“ |
Trước khi tôi chết, tôi trục xuất cựu Thống chế Đế quốc Hermann Göring
ra khỏi đảng và rút lại mọi quyền hành đã trao cho ông ấy qua nghị định
ngày 20 tháng 6 năm 1941... Thay cho chức vụ của ông ta, tôi bổ nhiệm
Thủy sư Đô đốc Dönitz làm Tổng thống Đế quốc và Tư lệnh Tối cao của Quân
lực.
Trước khi tôi chết, tôi trục xuất cựu Lãnh tụ SS và Bộ trưởng Nội vụ Heinrich Himmler ra khỏi đảng và ra khỏi tất cả chức vụ nhà nước. |
” |
—Adolf Hitler
|
Hitler cũng chỉ thị cho
Karl Dönitz bổ nhiệm
Joseph Göbbels làm Thủ tướng,
Martin Bormann là "Bộ trưởng Đảng" (chức vụ mới),
Arthur Seyss-Inquart làm Bộ trưởng Ngoại giao, Bá tước
Schwerin von Krosigk, Bộ trưởng Tài chính liên tục từ khi được
Franz von Papen bổ nhiệm năm 1932, tiếp tục giữ chức vụ này.
Chiều ngày
30 tháng 4, sau khi nói xong những lời vĩnh biệt, Hitler và vợ là
Eva Braun
mới làm lễ cưới trở về phòng riêng. Ở hành lang bên ngoài, Göbbels,
Bormann cùng vài người khác chờ đợi. Ít lâu sau, họ nghe một tiếng súng
nổ. Họ chờ nghe tiếng súng thứ hai, nhưng tất cả đều yên lặng. Sau một
lúc, họ nhè nhẹ bước vào phòng. Họ thấy thi thể của Adolf Hitler ngã dài
trên băng ghế dài, đang rỉ máu. Ông đã tự bắn vào miệng. Eva Braun nằm
bên ông. Hai khẩu súng lục nằm trên sàn, bà vợ đã không dùng súng, bà tự
sát bằng thuốc độc.
Lúc bấy giờ là 3 giờ rưỡi chiều ngày thứ hai, 30 tháng 4 năm 1945,
mười ngày sau sinh nhật thứ 56 của Hitler, mười hai năm ba tháng sau
ngày ông trở thành Thủ tướng của Đức Quốc xã và thiết lập Đế quốc thứ
ba. Đế quốc này chỉ sống thọ hơn ông có một tuần.
Kết cuộc
Ngày
4 tháng 5 đến ngày
8 tháng 5 năm
1945, các lực lượng quân đội Đức
đầu hàng vô điều kiện chấm dứt cuộc chiến tranh thế giới thứ hai ở châu Âu và với sự thành lập của
Hội đồng quản lý Đồng Minh vào ngày 5 tháng 6 năm 1945, bốn cường quốc đã "nắm quyền tối cao đối với nước Đức".
Phe Đồng Minh thắng trận ban đầu chia nước Đức thành những vùng chiếm đóng, tại
Hội nghị Potsdam các biên giới của Đức bên trong vùng chiếm đóng của
Liên Xô bị dời về phía tây, đa số được trao cho
Ba Lan trong khi một nửa vùng
Đông Phổ bị sáp nhập vào
Liên Xô. Cuộc di cư của người Đức từ
Đông Âu, được khởi động do hậu quả của
Hiệp ước Molotov-Ribbentrop, đã được hoàn thành vào cuối cuộc chiến khi hầu như toàn bộ người Đức ở
Trung Âu đã sơ tán sang phía tây
đường biên giới Oder-Neisse, có ảnh hưởng đến khoảng 10 triệu người Đức. Các vùng chiếm đóng của Pháp, Mỹ và Anh trở thành nước
Cộng Hòa Liên Bang Đức - Tây Đức theo chính thể
tư bản, trong khi vùng chiếm đóng của
Liên Xô trở thành nước
Cộng hòa Dân chủ Đức - Đông Đức theo chính thể
cộng sản. Tây Đức hồi phục trong
thập niên 1960, còn chế độ cộng sản Đông Đức thì bị sụp đổ sau một cuộc cách mạng vào năm
1990, thống nhất với Tây Đức trở thành nước Đức thống nhất theo chính thể tư bản.
Sau chiến tranh, các lãnh đạo Đức Quốc Xã còn sống sót bị đem ra xử tại
Tòa án Nürnberg về các
tội ác chống hòa bình,
tội ác chiến tranh và
tội ác chống nhân loại. Chỉ một số nhỏ bị xử
tử hình, đa số họ được thả vào giữa
thập niên 1950 vì lý do sức khỏe và tuổi tác. Nhiều người vẫn tiếp tục sống tới tận
thập niên 1970 và
thập niên 1980.
Tại tất cả các nước châu Âu không phát xít đều có các cuộc thanh trừng
hợp pháp nhằm trừng phạt các thành viên Đức quốc xã cũ và các đảng phát
xít. Một sự trừng phạt không được kiểm soát đã gây ra nhiều tổn thương
cho con em các gia đình thành viên Đảng Quốc xã (
trẻ em Nazi) và những trẻ em có bố là lính Đức tại các vùng bị chiếm đóng và những trẻ em sinh ra theo chương trình nguồn sống -
lebensborn.
- Xem Tòa án Nürnberg