Siêu thị điện máy liên tiếp đóng cửa

(VEF.VN) - Nguồn tin từ các DN kinh doanh siêu thị điện máy cho biết, siêu thị điện máy Best Carings tại Phú Mỹ Hưng, Quận 7, TP Hồ Chí Minh vừa phải đóng cửa do khách hàng quá vắng.
Thu hẹp và giải tán
Trường hợp trên của Best Carings chri là một ví dụ nhỏ trong vô số siêu thị điện máy đã đóng cửa từ đầu năm đến nay.
Vừa qua, chuỗi cửa hàng điện máy Thế giới số 24g của Nguyễn Kim tại Tp Hồ Chí Minh cũng đã đóng cửa. Chuỗi cửa hàng này mới mở cửa cách đây không lâu bỗng dưng lại đóng cửa làm nhiều người không khỏi bất ngờ.
Theo tin từ Nguyễn Kim thì chuỗi cửa hàng này sẽ chuyển thành Trung tâm thương mại Sài Gòn Nguyễn Kim và sẽ tiếp tục phuc vụ khách hàng trong thời gian tới. Tuy nhiên một số nguồn thạo tin cho hay kinh doanh thua lỗ, trong khi mặt bằng đã thuê dài hạn không trả lại được nên phải chuyển hướng.
Tại Hà Nội một loạt các siêu thị điện máy cũng bắt đầu thu hẹp quy mô trưng bày. Siêu thi Điên máy Pico tại 173 Xuân Thuỷ, quận Cầu Giấy, trước đây bề thế với 4 tầng nay đã thu lại còn 3.  Tuy mặt bằng thuê dài hạn, nhưng vẫn phải thu hẹp để cắt giảm các chi phí cố định như tiền điện.
Siêu thị điện máy Trần Anh tại 292 Tây Sơn, quận Đống Đa cũng trong tình cảnh tương tự, thu hẹp quy mô từ 4 tầng nay giảm xuống còn 3 nhằm giảm các chi phí.



Cuối năm 2011 Trần Anh vừa mở 1 siêu thị điện máy tại quận Long Biên với diện tích 5.000 m2 thì nay sau vài tháng bán hàng đã quyết định trả lại 1/2 diện tích.
Siêu thị Media Mart mới đây đã phải đóng cửa điểm bán hàng ở Nguyễn Chí Thanh, còn siêu thị Việt Long cũng dừng bán ở Hà Đông.
Một DN kinh doanh điện máy cho biết hiện nay có không ít các siêu thị tại Cần Thơ, Tp Hồ Chí Minh, Hà Nội lâm vào cảnh tài chính rất khó khăn, không có tiền trả tiền thuê mặt bằng, nợ lương, nợ bảo hiểm nhân viên, giảm bớt nhân viên...
Các DN cho biết, nhu cầu về hàng điện máy sau Tết nguyên đán đã giảm từ 50%- 70% so với trước Tết. Hiện doanh thu các mặt hàng điện máy của nhiều siêu thị tại Hà Nội chỉ ở mức 100 triệu đồng/ ngày trong khi trước kia  con số này phải là 1 tỷ đồng/ngày.
Nhỏ lẻ bị diệt vong
Doanh thu giảm mạnh, trong khi hợp đồng thuê mặt bằng đã ký dài hạn, chi phí thuê không hề giảm xuống. Chi phí mặt bằng thường chiếm tới 50% tổng chi phí của các siêu thị điện máy. Tính toán sơ bộ, để có hiệu quả thì doanh số tính trên m2 diện tích sàn ở mức 100 triệu đồng/tháng, nhưng hiện nay giá thuê mặt bằng thì cao, trong khi sức mua lại giảm mạnh khiến nhiều siêu thị không đạt được con số trên. Doanh số thu được của các siêu thị giờ chỉ đạt dưới 30 triệu đồng/m2.
Kinh doanh thua lỗ, nhưng muốn trả lại mặt bằng cũng không dễ, do đã ký hợp đồng thuê dài hạn và phải đặt cọc với số tiền lớn đến hàng chục tỷ đồng,  nếu chủ cho thuê không đồng ý mà bỏ coi như bị mất toàn bộ tiền đặt cọc nên đành phải chấp nhận.
Ông Đinh Anh Huân, giám đốc Thế Giới Điện Tử cho biết, nếu tính từ khâu phân phối, xuống khâu bán lẻ đến giá cho người tiêu dùng đầu cuối, để "cầm cự qua ngày", ít nhất giá phải tăng khoảng 15% - 18% so với hồi trước Tết, do các chi phí đều tăng, nhưng tất cả không thể tăng giá bán.
Ngược lại do hàng tồn kho tăng cao, nhiều siêu thị đã phải thực hiện xả hàng tồn kho, chấp nhận thua lỗ, trong đó có nhiều chiêu khuyến mãi giảm giá rất sâu. Từ đầu năm 2012 đến nay, thực trạng các siêu thị lớn nhỏ trong nước ồ ạt khuyến mãi như giảm giá 20% - 50% cho từng sản phẩm, giảm giá thêm cho khách hàng mua online, vận chuyển miễn phí hàng trăm cây số để câu khách tỉnh xa... chấp nhận lãi ít hoặc bù lỗ phần nào cho thấy các DN cũng đang cố gắng để "giải quyết vấn đề".
Hiện chỉ cần 4 triệu đồng cũng có thể mua được 1 chiếc tivi LCD 32 inch thương hiệu Hàn Quốc hoặc Nhật Bản tại các cửa hàng điện máy mà trước đó, giá sản phẩm này gần 7 triệu đồng. Các mặt hàng tiêu dùng khác như nồi cơm điện, lò vi sóng, máy xay sinh tố... giá cũng đang giảm mạnh.
Việc mua bán, sáp nhập các siêu thị điện máy cũng đang chững lại. Nhiều DN chào bán mà không có người mua, hoặc trả giá quá thấp. Một nguồn tin từ các DN kinh doanh điện máy cho biết, có DN đã tính bán chuỗi siêu thị điện máy có thương hiệu khá lớn của  mình cho nhà đầu tư Hồngkông. Cuối năm ngoái, nhà đầu tư này trả 70 triệu USD mua lại 70% cổ phần thì không đồng ý, đòi 120 triệu USD. Nay cũng 70% cổ phần đó, người ta chỉ trả có 30 triệu USD.
Mặc dù vậy, một số siêu thị điện máy dù hoạt động rất khó khăn nhưng vẫn cố "sống" với hy vọng khi nền kinh tế phục hồi sẽ lấy lại sức bật. Tuy nhiên theo nhận định thì thị trường điện máy còn khó khăn đến hết quý 1/2013.
Nhận định của giới kinh doanh ngành hàng điện tử, điện máy cho thấy, rất có thể ngay trong quý 2/2012 sẽ xảy ra "cú sốc" lớn khi có thêm một vài con "cá lớn" kinh doanh ngành hàng này phải tuyên bố phá sản.
Đại diện một hãng phân phối máy tính, điện thoại và thiết bị siêu thị khá lớn trên đường Thái Hà cho rằng, năm 2012 tiếp tục là thời kỳ thị trường điện máy có sự đào thải theo hướng "Mạnh sống, yếu chết". Dự kiến trong tương lai chỉ còn lại 3 DN lớn chiếm khoảng 70% thị phần, tất cả các DN khác chia nhau 30% còn lại và các cửa hàng nhỏ lẻ thì dần dần biến mất hoặc chuyển sang thị trường khác, kinh doanh các mặt hàng chuyên dụng.

Rau mầm có thể gây ngộ độc


Hiện nay, trước tình trạng mất an toàn vệ sinh của các loại rau củ, nhiều người đã chọn cho mình phương thức tự trồng hoặc mua rau mầm. Tuy nhiên, đã từng xảy ra những vụ ngộ độc rau mầm, gây nguy hiểm cho sức khoẻ người ăn rau.
  
Giàu dưỡng chất

Rau mầm chứa nhiều loại vitamin thiết yếu (vitamin B, C, E…), amino axit và chất xơ cần thiết cho cơ thể với hàm lượng cao. Nhờ giàu vitamin, rau mầm giúp cơ thể tăng sức đề kháng, giữ gìn làn da mịn màng tươi tắn, nguồn vitamin E dồi dào trong rau mầm còn giúp làm chậm quá trình lão hoá và tăng cường sinh lực, gây hưng phấn. Hàm lượng chất xơ cao sẽ giúp người ăn dễ tiêu hoá, dễ hấp thụ, chuyển hoá các chất phức tạp. Theo nghiên cứu của một số nhà dinh dưỡng học Mỹ, rau mầm thích hợp cho các chế độ ăn kiêng và còn giúp ngăn ngừa các nguy cơ ung thư.


Có thể gây ngộ độc

Hầu hết các loại rau mầm đều phải trồng trong môi trường ấm và đây chính là cơ hội cho các loại vi khuẩn phát triển. Nếu quá trình chăm sóc rau không bảo đảm an toàn thì rau cũng sẽ bị nhiễm khuẩn.

Rau mầm còn có thể bị nhiễm khuẩn, nhiễm bẩn do quá trình thu hoạch không bảo quản đúng cách. Bên cạnh đó, còn có nguy cơ từ lượng phân bón thấm vào rau mầm khi người ta cố tình dùng nó để kéo dài ngày thu hoạch.

Ngoài ra, nguy cơ ngộ độc rau mầm còn có thể đến từ chính đặc tính sinh học của hạt giống. Theo nhiều nghiên cứu cho thấy, trong mầm khoai tây và mầm của các loại dưa dây có chứa độc chất là alkaloid solanine. Khi bị ngộ độc với triệu chứng buồn nôn, tiêu chảy, đau đầu, tức ngực, nặng có thể nguy hiểm đến tính mạng.

Các loại rau mầm họ đậu giàu dưỡng chất, vitamin thúc đẩy quá trình phát triển và chống lão hóa nhưng một số đậu như đậu ván, đậu mèo, đậu kiếm, đậu trứng chim cũng có hàm lượng lớn glucozid sinh axit cyanhydric giống như trong măng và sắn nên ta không nên ăn rau mầm của những loại này.

Những cây măng mọc ở môi trường không có ánh sáng cũng có thể gây ngộ độc vì trong môi trường này độc tố của măng sẽ cao hơn nhiều.

Cách chọn và chế biến an toàn

Khi chọn mua rau mầm nên chọn sản phẩm có nguồn gốc, uy tín, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm. Không mua những hộp rau có màu sắc lạ hay lá đã ngả vàng, thân, lá rau to xanh bất thường và quá bóng mượt hoặc gốc mọc ra rễ mới (điều này chứng tỏ rau có độc tố bảo quản). Rau mua về nên sử dụng ngay nếu cần bảo quản phải để trong hộp nhựa hoặc nilon khô ráo, thoáng khí ở nhiệt độ 4 - 5 độ C, tối đa 3 - 4 ngày.

Trước khi sử dụng nên rửa thật kỹ nhiều lần dưới vòi nước đang chảy để loại bỏ các nguy cơ, sau đó ngâm thêm trong nước muối loãng 10 - 15 phút để loại bỏ hóa chất. Rau mầm tốt nhất là được nấu chín, hạn chế ăn sống, nhất là đối với người già, trẻ em và người miễn dịch yếu càng không nên ăn sống loại rau này.

Chỉ có 5% người cao tuổi khỏe mạnh


(Dân trí) - “Gánh nặng bệnh tật đang đè nặng lên 95% người cao tuổi ở nước ta”, theo điều tra của ngành y tế được công bố tại Lễ mít tinh hưởng ứng Ngày Sức khỏe thế giới (7/4) năm 2012 do Bộ Y tế tổ chức.

Để vui khỏe khi già cần ý thức ngay từ lúc trẻ (ảnh minh họa internet)
 
Phát biểu tại buổi lễ, ông Trần Đức Long, Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Y tế, nhấn mạnh: “Nước ta đang ở thời kỳ dân số vàng nhưng đồng thời cũng đang bước vào ngưỡng cửa của sự già hóa dân số với tốc độ nhanh, đòi hỏi ngành Y tế phải có những biện pháp thích hợp để đảm bảo cho phát triển kinh tế - xã hội nói chung và công tác chăm sóc sức khỏe nói riêng một cách bền vững. Thực tế trên vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời cũng là nhiệm vụ nặng nề của ngành Y tế”.

Theo nghiên cứu dịch tễ học mới đây,  tỷ lệ người cao tuổi có sức khỏe tốt chỉ chiếm khoảng 5%. 95% còn lại mắc các bệnh tăng huyết áp (gần 40%), viêm khớp (hơn 30%), bệnh phổi phế quản tắc nghẽn mãn tĩnh, đái tháo đường, sa sút trí tuệ, giảm thị lực, thính lực… Tính trung bình mỗi người già mang 2,6 bệnh tật.

Hiện nay, Việt Nam có khoảng 8,15 triệu người cao tuổi, chiếm 9,4% dân số. Dự báo vào năm 2017 tỷ lệ dân số từ 60 tuổi trở lên ở Việt Nam sẽ chạm ngưỡng 10% tổng dân số, tức là dân số Việt Nam chính thức bước vào giai đoạn “già hóa”.
Hệ quả là bình quân chi phí y tế cho người cao tuổi gấp 7 lần so với người trẻ và chỉ tính riêng chi phí y tế cho nhóm người trên 75 tuổi đã chiếm tới 30% tổng ngân sách y tế của một quốc gia.

Nếu không sẵn sàng chuẩn bị, chúng ta có thể “bị choáng ngợp bởi sự gia tăng số lượng người tàn tật và người cần sự chăm sóc như người mắc bệnh đột quỵ, đái tháo đường và ung thư” và “Điều quan trọng chúng ta nhìn nhận tuổi già không phải như một thời kỳ giảm sút sức khỏe không thể tránh khỏi mà phải như là một cuộc sống năng động, ý nghĩa và hữu ích”, TS Shin Young-soo, GD WHO khu vực Tây Thái Bình Dương khẳng định.

Vì vậy, cùng với thông điệp “Có sức khỏe tốt sẽ giúp kéo dài thêm tuổi thọ” của WHO đưa ra trong Ngày sức khỏe thế giới năm nay, ngành y tế cũng kêu gọi tăng cường chăm sóc sức khỏe đối với người cao tuổi qua việc tạo ra một môi trường thân thiện để người già có thể hòa nhập và tham gia vào cộng đồng (như sự gắn kết giữa các thế hệ trong gia đình, kính trọng người già…); chăm sóc y tế cộng đồng để tăng cường sức khỏe, phòng ngừa bệnh tật… và duy trì thói quen tập thể dục hàng ngày.
 
7 nguy cơ hàng đầu đối với sức khỏe mà người cao tuổi có thể phòng ngừa được:

Hút thuốc lá: Nguy cơ mắc các bệnh mạn tính của người cao tuổi có liên quan tỷ lệ thuận với thời gian và mức độ hút thuốc.

Ít hoạt động thể lực: Tham gia rèn luyện thể lực thường xuyên, điều độ có thể trì hoãn được sự suy giảm các chức năng trong cơ thể, làm giảm nguy cơ khởi phát các bệnh mạn tính ở người cao tuổi.

Dinh dưỡng không hợp lý: Chế độ ăn ít chất bột, chất béo làm giảm nguy cơ béo phì, các bệnh mạn tính và tàn phế ở tuổi già. Không nên sử dụng các chất kích thích như rượu, bia.

Tai biến do thuốc: Người cao tuổi thường có một hoặc nhiều bệnh mạn tính cho nên họ hay sử dụng thuốc chữa bệnh. Đôi khi thuốc lại được kê quá nhiều cho người già.

Không tuân thủ chế độ chăm sóc, điều trị: Sự tuân thủ điều trị bao gồm sử dụng thuốc theo hướng dẫn của thầy thuốc và duy trì chế độ ăn lành mạnh, tập luyện thể dục, không hút thuốc... Việc tuân thủ kém ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả điều trị, đến chất lượng sống. Lúc đó, những tiến bộ của y dược học cũng không làm gì được để giảm gánh nặng của bệnh mãn tính.

Nước không sạch và môi trường vệ sinh kém: Một trong những nguyên nhân gây tử vong do tiêu chảy.
Trầm cảm và sa sút trí tuệ: Nhìn chung trong cuộc đời của mình, có từ 15 đến 40% người cao tuổi từng có một thời kỳ trầm cảm rõ rệt. Hơn 90% ca trầm cảm và sa sút trí tuệ không được phát hiện và ngay cả khi đã biết cũng không được điều trị đúng.
 
Thu Phương

Giật mình với thu nhập của người Việt Nam so với khu vực

Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam tụt hậu tới 51 năm so với Indonesia, 95 năm so với Thái Lan và 158 năm so với Singapore.


Thu nhập trung bình của người Việt Nam vẫn còn khoảng cách rất xa so với các nước trong ASEAN và Trung Quốc, dù đã được cải thiện nhiều do đổi mới và mở cửa cách đây hơn một phần tư thế kỷ.
Một góc vùng quê Bạc Liêu
Trong khi đó, cơ hội để Việt Nam đuổi kịp Trung Quốc và các nền kinh tế ASEAN sẽ vẫn là viễn cảnh xa vời, nếu thiếu đi những động lực cải cách hơn nữa.
Đây là cảnh báo của một đề tài khoa học cấp nhà nước mang tên “Mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011-2020: từ nhận thức với hành động” do ĐH Kinh tế Quốc dân thực hiện. Báo cáo này, thực hiện theo yêu cầu của Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội, trích dẫn số liệu về thu nhập của Việt Nam và các quốc gia khu vực do Quỹ Tiền tệ Quốc tế thực hiện năm 2010.
Theo đó, tính theo tỷ giá hối đoái, GDP đầu người của Việt Nam đã tăng từ mức 114 USD năm 1991 lên 1.061 USD năm 2010. Trong khi đó, GDP đầu người của Trung Quốc tăng từ 353 USD lên 3.915 USD trong khoảng thời gian trên.
Như vậy, thu nhập đầu người của Việt Nam tương đương 32% của Trung Quốc năm 1991 đã giảm xuống còn 27% năm 2010.
Mặt khác, tính theo sức mua tương đương (PPP), GDP bình quân đầu người của Việt Nam đạt 706 USD năm 1991 và lên tới 2.948 USD năm 2010. Trong khoảng thời gian đó, con số này của Trung Quốc tăng từ 888 USD lên 6.786 USD.
Như vậy, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam bằng 80% của Trung Quốc năm 1991 đã giảm xuống còn 43% năm 2010.
Bên cạnh đó, so với các quốc gia ASEAN khác, dù thu nhập của người Việt Nam đã dần được thu hẹp trong 20 năm qua, khoảng cách vẫn còn rất lớn ở vào thời điểm hiện tại.
Tiến sĩ Phạm Hồng Chương và các đồng sự ở ĐH Kinh tế Quốc dân cho biết, GDP bình quân đầu người của Việt Nam theo PPP chưa bằng 1/2 của Philippines, hay Indonesia, khoảng 1/5 của Thái Lan, 1/10 của Malaysia năm 1991.
Con số này đã vượt qua mức 3/4, 1/3 và 1/5 của các nước trên sau gần 20 năm.

Tóm lại, quy mô GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2010 đạt 1.061 USD tính theo tỷ giá hối đoái, và 2.948 USD theo PPP.
Tiến sĩ Phạm Hồng Chương nhận xét: “Đây là những chỉ số còn thấp xa so với mức bình quân chung của khu vực, của châu Á và thế giới”. Ông nhận xét, sau hơn một phần tư thế kỷ đổi mới và mở của, Việt Nam đã chuyển từ nhóm nước có thu nhập thấp sang nhóm thu nhập trung bình, theo tiêu chuẩn của Ngân hàng Thế giới.
Tuy nhiên, theo ông Chương, xét về nhiều mặt, động thái tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chưa thể hiện rõ quyết tâm và khả năng thoát khỏi nguy cơ tụt hậu phát triển. Trong khi đó, trong một vài năm gần đây, nền kinh tế còn bộc lộ nhiều rủi ro tiềm ẩn về tính bền vững của quá trình tăng trưởng.
Báo cáo của ĐH Kinh tế Quốc dân chỉ ra thêm về thực trạng thất nghiệp ở mức 4,6% ở thành thị và 20% lao động ở nông thôn chưa được sử dụng; báo cáo nhận xét: “Như vậy, tỷ lệ trên tương đương với trên 10 triệu lao động thất nghiệp hoàn toàn ở Việt Nam”.
Thu nhập của người Việt Nam bị bỏ lại quá xa bởi các nước trong khu vực không phải là vấn đề mới.
Theo Báo cáo phát triển Việt Nam 2009 của Ngân hàng Thế giới, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam tụt hậu tới 51 năm so với Indonesia, 95 năm so với Thái Lan và 158 năm so với Singapore.

Báo cáo này căn cứ vào tốc độ tăng trưởng thu nhập trên đầu người tính theo giá cố định trong giai đoạn 2001 – 2007 của các quốc gia và kết luận “thực tế là Việt Nam sẽ phải rất lâu mới theo kịp được”.
Theo Thời báo Kinh tế Sài Gòn

Đau vai ở một vài tư thế


Tôi năm nay 55 tuổi, khoảng tháng nay, khớp xương vai phải của tôi bị đau, hiện trạng không phải lúc nào cũng đau. Chỉ một vài tư thế nào đó như cởi áo thun, lấy đồ quá với... thì bị nhói đau, không kéo dài.
Mỗi buổi chiều tôi thường đi bộ khoảng 30-45 phút, vừa đi bộ tôi vừa vận động thêm hai cánh tay. Cánh tay đau (tay phải) khớp vai có cảm giác kêu cụp cụp, còn bên tay mạnh (tay trái) thì không.
Tôi đi khám bảo hiểm y tế, BS bảo do lớn tuổi, xương bị thoái hóa, bảo tôi thường xuyên tập thể dục, kê thuốc (tôi không ghi lại đây được vì khó đọc). Tuần nay, tôi có cảm giác đau nhiều hơn, xin chỉ dẫn cách điều trị. Ở TP.HCM, bệnh viện nào khám và điều trị bệnh đau khớp vai của tôi? (Nguyễn Văn Long)
Trả lời của Phòng mạch Online:
 - Theo những gì anh mô tả kèm theo ở độ tuổi như anh thì chúng tôi nghĩ có nhiều khả năng anh có thể bị tổn thương chóp xoay (viêm hay rách bán phần) hoặc có thể là bị tổn thương bong sụn viền trên ổ chảo xương cánh tay.
Anh có thể tham khảo thêm bài viết của chúng tôi về các triệu chứng của đau chóp xoay. Cụ thể là khi mới bắt đầu anh sẽ bị đau ở một vài tư thế nào đó chẳng hạn như khi đưa tay ra sau lưng gãi lưng hay đưa tay lên quá đầu để mặc áo chẳng hạn.
Nặng hơn nữa cơn đau sẽ xuất hiện thường xuyên hơn ngay cả lúc đêm về sáng, nằm nghiêng bên vai đau cũng gây đau. Hạn chế vận động nhiều hơn, nhất là các động tác đưa tay lên quá đầu. Đây cũng là tình trạng thoái hóa thiếu máu nuôi làm gân dễ bị đứt.
Chụp X-quang khớp vai tư thế đặc biệt cho phép xem có tình trạng có chòi xương mặt dưới mỏm cùng gây chèn ép và gây đau vai hay không. Nếu bị tổn thương sụn viền trên của ổ chảo anh sẽ có cảm giác đau mơ hồ trong khớp vai, đau ở một vài tư thế nào đó, cơn đau không thật sự là đau mà là cảm giác tức khó chịu.
Khi anh đi khám bệnh các bác sĩ sẽ có những cách khám đặc biệt để phát hiện tổn thương và sẽ cho anh đi chụp hình để chẩn đoán.
Tuy nhiên những gì chúng tôi nêu ra chỉ là phỏng đoán. Anh cần được khám và chẩn đoán ra bệnh trước khi có điều trị. Tại thành phố anh có thể liên hệ với phòng khám cơ xương khớp của BV Đại học Y dược cơ sở 1 để chúng tôi có chẩn đoán dựa trên việc thăm khám trực tiếp và cho anh đi làm các xét nghiệm về hình ảnh học (X-quang, MRI). Nếu có bảo hiểm, anh có thể chuyển bảo hiểm để có thể khám theo bảo hiểm. Ngoài ra những nơi khác có thể khám như Bệnh viện Chợ Rẫy, Bệnh viện CTCH…
BS TĂNG HÀ NAM ANH
(giảng viên CTCH BV ĐH Y dược cơ sở 1 TP.HCM)

Chuyện quanh chiếc bằng lái xe ở Đức







Chi phí sở hữu bằng lái chênh lệch tới 150% ở mỗi bang
Tại Đức, chi phí cho việc sở hữu một chiếc bằng lái xe ô tô không hề rẻ. Tuy nhiên, mức phí này không đồng nhất  mà có chênh lệch khá nhiều ở mỗi bang
Cổng thông tin xe hơi www.auto.de khảo sát chi phí làm bằng lái hạng B có sự vênh đáng kể giữa các bang, có khi lên tới 150%.
Cuộc khảo sát đã cho thấy, bang Sachsen-Anhalt có chi phí làm bằng thấp nhất với 800 euro, cao nhất 2000 euro thuộc về bang Baden-Württemberg. Trong đó, chi phí trung bình cho một giấy phép lái xe ô tô tại Đức là 1337 euro.
Ngoài ra, chi phí đào tạo lái xe cũng có sự khác biệt giữa hai miền Đông Đức và Tây Đức. Tại các bang miền Tây, việc làm bằng lái xe rẻ hơn rõ ràng so với các bang còn lại của Đức. Nhìn chung, các trường đào tạo lái xe có mức học phí thấp nhất tập trung ở Thüringen với mức trung bình khoảng 1040 euro và đắt nhất tại Bayern với 1660 euro.
Kết quả khảo sát này được đưa ra dựa trên việc thăm dò 130 trường lái xe tại tất cả 16 bang của Đức. Ngoài việc công bố tổng chi phí cho việc làm bằng, cuộc khảo sát còn cho thấy các mức chi phí thành phần khác cho việc học lý thuyết, học thực hành và kỳ thi thực tế cuối khóa.
Không công nhận bằng lái thi ở nước ngoài
Mặc dù Đức cũng là một thành viên EU và mọi thứ đang xích lại gần nhau hơn, nhưng vẫn còn có những thứ ngăn cách.
Cuối tháng 12/2011 vừa qua, Toà án tư pháp châu Âu phán quyết rằng nước Đức sẽ phải công nhận bằng lái xe của nước ngoài chỉ khi người lái xe đã sống ở nước đó từ 6 tháng trở lên.
Trong vụ kiện dẫn đến phán quyết trên, một phụ nữ ở Bayern đã thi được bằng lái xe tại Séc nhưng không được các cơ quan của Đức công nhận vì nơi sinh sống của người phụ nữ là vùng Nürnberg, chỉ cách biên giới Séc 130km, nên cô này đã sang Séc thi lấy bằng lái xe năm 2006. Do không được Đức công nhận nên cô này đã kiện ra toà án hành chính München.
Theo phán quyết của nhiều toà án tại Đức, nước Đức sẽ không phải công nhận bằng lái xe của Séc nếu người lái xe đã từng bị thu hồi giấy phép lái xe ở Đức (chủ yếu do uống rượu khi lái xe). Người phụ nữ nói trên tranh luận rằng, cô không hề phạm tội và cũng chưa từng vi phạm luật giao thông. Bằng lái xe do Séc cấp là chiếc bằng lái đầu tiên của cô.
Tuy nhiên, toà án châu Âu nói rằng các cơ quan ở Bayern đã đúng khi không công nhận bằng lái xe của người phụ nữ. Về cơ bản, các nước EU sẽ phải công nhận bằng lái xe của nước khác, nhưng chỉ khi người lái xe sống ở nước đó ít nhất 6 tháng. Trong trường hợp của người phụ nữ, cô này sống tại Đức nên không được công nhận bằng lái xe do Séc cấp.
17 tuổi bắt đầu được lái xe có người kèm
Sau thời gian thử nghiệm trên cả nước với nhiều kinh nghiệm đầy hứa hẹn, Chính phủ Đức đã thông qua luật cho phép thanh thiếu niên từ 17 tuổi được lái xe khi có người kèm kể từ năm 2011.
Theo đó, thanh thiếu niên từ 16 tuổi rưỡi đã có thể bắt đầu học lái xe và thi lấy bằng khi tròn 17 tuổi.
Nhưng trước khi kết thúc tuổi vị thành niên, 18 tuổi, họ chỉ được phép lái xe khi có người đi kèm. Người đi kèm phải từ 30 tuổi trở lên, đã có bằng lái xe ít nhất 5 năm và không được bị phạt quá 3 điểm trong Danh mục phạt xe trung tâm của Flenburg.
Đi đầu trong xu hướng này là tiểu bang Niedersachsen. Từ năm 2004, tiểu bang này đã đưa vào thực hiện thí nghiệm mô hình. Cho đến nay, thanh thiếu niên trên toàn nước Đức được phép thi bằng lái xe ô-tô ở độ tuổi 17. Theo thông cáo của Bộ Giao thông, từ khi bắt đầu thử nghiệm này, đã có khoảng 380.000 người thi bằng lái xe có người đi kèm, số lượng người tham gia tăng nhanh hàng năm.
Ông Ramsauer, đại diện Bộ Giao thông Đức cho biết, kinh nghiệm đạt được rất khả quan. Nhiều cuộc khảo sát của Bộ Giao thông cho thấy, nhờ vào việc lái xe có người đi kèm, số vụ tai nạn giảm đi rõ rệt và mức độ an toàn giao thông tăng hơn trước. Nhất là đối với những thanh niên nam, những người trước đây thường gặp nguy hiểm trong giao thông đường phố nhất.
Không những thế, thanh niên mới tiếp xúc với việc lái xe có thể học được nhiều thói quen tốt từ người đi kèm, khi người này nhắc nhở họ để ý những tình huống nguy hiểm. Đồng thời, người đi kèm khi tự lái xe cũng sẽ giữ đúng luật hơn.

Video hài 29-3-2012

Tự thiêu tại Ấn độ phản đối Trung quốc





Cộng đồng Tây Tạng khắp nơi trên thế giới tựu về Tân Deli phản đối sự hiện diện của Hồ Cẩm Đào - Chủ Tịch đảng Cộng sản Tàu.


Từ 9 giờ 30 sáng ngày hôm nay 26 tháng 03, 2012 hàng nhiều chục ngàn người đã tề tựu đến địa điểm và cuộc tuần hành hơn 2 tiếng đồng hồ từ đại lộ New Delhi .. đến Jantar Mantar, Delhi cùng lúc đó có cả trăm người đang tuyệt thực .



Một sự việc vô cùng xúc động diễn ra. Đó là một thanh niên Tây Tạng tự châm lửa biến thân thành đuốc sống trước muôn ngàn tiếng gào thét đớn đau của mọi người . Người thanh niên đó đã ngã trước mặt tôi . Một sinh vật cháy đen ! Ngọn lửa trên thân thể đã được dập tắt . Chúng tôi không thể nhìn người chết mà không cứu dù cho chính người đó đang tìm cái chết trong ý nghĩa cao cả hy sinh.



Khó nhọc lắm cảnh sát mới có thể đưa được thân thể của người tự thiêu ra khỏi đám đông vây kín.

Ôn Gia Bảo đề xuất “giải oan” cho Pháp Luân Công


Theo tin tức do nhân sĩ ở Bắc Kinh tiết lộ, trong các hội nghị cấp cao Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) mới đây, Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo không chỉ nhiều lần đề xuất “sửa lại án sai” (tiếng Trung gọi là “bình phản”) cho Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương, mà còn đề xuất “giải oan cho Pháp Luân Công”. Tuy nhiên đề xuất này luôn gặp phải phản đối từ phía Chu Vĩnh Khang và phe nhóm Giang Trạch Dân.
Ôn Gia Bảo đề xuất “giải oan cho Pháp Luân Công”
Ngày 24 tháng 3 năm 2012, trong hội nghị cấp cao ĐCSTQ, ông Ôn Gia Bảo không chỉ nhiều lần đề xuất “bình phản Lục Tứ” (cuộc thảm sát Thiên An Môn ngày 4/6/1989), mà còn đề xuất sửa lại án sai cho Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương, các cựu lãnh đạo ĐCSTQ. Ông còn động chạm tới khu vực cấm “nhạy cảm” nhất của ĐCSTQ, đề xuất “giải oan cho Pháp Luân Công”.
Theo tin tức, các đề nghị này của ông Ôn Gia Bảo đã bị phe bảo thủ trong ĐCSTQ ngăn cản. Người phản đối giải quyết oan sai cho Pháp Luân Công là Chu Vĩnh Khang, nhân vật đại biểu phe phái của Giang Trạch Dân. Hồ Cẩm Đào không biểu đạt ý kiến nào.
Nguồn tin nói những người phản đối bình phản Hồ Diệu Bang là khá ít, còn phản đối bình phản Triệu Tử Dương lại khá nhiều. Bình phản Triệu Tử Dương, tất nhiên cũng phải sửa lại án oan cho cuộc thảm sát Thiên An Môn. Bình phản Hồ Diệu Bang, sở dĩ số người phản đối khá ít, là vì những nguyên lão cấp cao ĐCSTQ phản đối Hồ Diệu Bang đều đã qua đời rồi. Tuy nhiên, rất nhiều đại nhân vật phản đối Triệu Tử Dương vẫn còn sống, ví dụ Lý Bằng và Giang Trạch Dân, v.v.
Chu Vĩnh Khang và hệ thống chính trị-luật pháp mổ lấy nội tạng kiếm tiền
Sự cố Vương Lập Quân nổ ra đã bóc trần tấm màn đen “mổ lấy nội tạng học viên Pháp Luân Công”, bởi vậy Ôn Gia Bảo mới không do dự đề xuất tống Bạc Hy Lai vào tù. Ông Ôn nói: “Sáu, bảy năm trước, thực ra còn sớm hơn, hậu quả đáng sợ mà đàn áp Pháp Luân Công gây ra cho Trung Quốc đã nhìn thấy được rồi. Thông qua điều tra, chúng ta phát hiện Giang Trạch Dân đã sử dụng một lượng tài lực quốc gia kinh hoàng để trấn áp một đoàn thể dân chúng tay không tấc sắt, thật cực kỳ hoang đường. Mãi cho tới hiện tại, vấn đề này Trung ương vẫn không dám đối diện, không dám giải quyết”.
Theo nguồn tin, trong hội nghị nội bộ tại Trung Nam Hải, ông Ôn Gia Bảo nói: “Không cần thuốc mê, mổ lấy nội tạng sống, còn đem bán lấy tiền, đây là việc làm của con người ư? Sự tình loại này xảy ra đã nhiều năm rồi, chúng ta sắp về hưu rồi, vẫn còn chưa giải quyết…” “Hiện tại lòi ra sự kiện Vương Lập Quân, cả thế giới đều biết hết rồi, cần xử lý sao đây…”
Vấn đề Pháp Luân Công vẫn luôn là tiêu điểm gây bất đồng giữa liên minh Hồ-Ôn và phe phái Giang Trạch Dân.
Khi cuộc đấu đá nội bộ trong ĐCSTQ đang kịch liệt chưa từng có, mạng tìm kiếm Baidu vốn bị phe nhóm Giang Trạch Dân khống chế nghiêm ngặt, gần đây đã một lần bỏ cấm các nội dung “Lửa giả“, “Đoàn Nghệ thuật Thần Vận“, “Chuyển Pháp Luân“, “Mổ lấy nội tạng học viên Pháp Luân Công“, v.v. đặc biệt tin tức ĐCSTQ mổ cướp nội tạng khiến người ta kinh hãi. Điều này thuyết minh kiếm của Hồ-Ôn đang nhắm vào tử huyệt của tập đoàn Giang Trạch Dân, bởi vì Vương Lập Quân, Bạc Hy Lai, Chu Vĩnh Khang đều thăng tiến đường quan lộ nhờ tiên phong theo Giang Trạch Dân bức hại Pháp Luân Công.
Bạc Hy Lai bị Ôn Gia Bảo đoạn đứt “hoạn lộ”
Mới đây, trang mạng WikiLeaks đã công bố một bức điện ngoại giao của Mỹ, trong đó nói thời Bạc Hy Lai còn đảm nhiệm chức Bộ trưởng Thương mại, ông ta vì “bức hại Pháp Luân Công” mà bị rất nhiều quốc gia nước ngoài khởi tố. Ngoài ra, do Ôn Gia Bảo cực lực phản đối ông ta nhăm nhe chức Phó Thủ tướng, Bạc Hy Lai đã bị giáng xuống chức Bí thư Thành ủy Trùng Khánh, khả năng là trạm dừng cuối cùng trong sự nghiệp chính trị của Bạc.
“Chuyển Pháp Luân” một lần được bỏ cấm
Khoảng 2 giờ sáng ngày 21 tháng 3 năm 2012 giờ Bắc Kinh, từ mạng Baidu, cư dân mạng Trung Quốc có thể tìm kiếm cuốn sách “Chuyển Pháp Luân“, trước tác của Pháp Luân Đại Pháp bị che đậy đã nhiều năm. Trang chủ của Baidu hiển thị các website nội dung liên quan đến Pháp Luân Công, bao gồm cả đồ hình Pháp Luân và Pháp tượng của Đại sư Lý Hồng Chí. Người ta cũng nhìn thấy nội dung toàn văn cuốn “Chuyển Pháp Luân”, tác phẩm nổi tiếng nhất của Pháp Luân Đại Pháp, cùng ảnh luyện công của các học viên Pháp Luân Công trong và ngoài Trung Quốc.
“Thu hoạch đẫm máu” một lần được bỏ cấm
Không chỉ có vậy, cũng trên mạng tìm kiếm Baidu lớn nhất Đại Lục, vào lúc 8 giờ tối ngày 23 tháng 3 giờ Bắc Kinh, người ta có thể tìm kiếm cuốn sách “Thu hoạch đẫm máu” (Bloody Harvest) và các tin tức liên quan phơi bày tội ác mổ lấy nội tạng học viên Pháp Luân Công của ĐCSTQ. Cuốn “Thu hoạch đẫm máu” mới do hai nhà vận động nhân quyền Canada là David Kilgour và David Matas công bố tại Đài Loan, là một báo cáo điều tra ĐCSTQ mổ lấy nội tạng học viên Pháp Luân Công.
Báo cáo dẫn chứng một lượng lớn điều tra thực tế, chứng minh ĐCSTQ mổ lấy nội tạng học viên Pháp Luân Công là có thật, mô tả đây là “tội ác chưa từng có trên trái đất này”.
Tối hôm đó, khi người dùng gõ “Vương Lập Quân mổ” vào Baidu, kết quả đầu tiên là “Vương Lập Quân tự mình trình báo nhiều tình tiết về Bạc Hy Lai”, còn kết quả cuối cùng là “Tận mắt chứng kiến mổ lấy nội tạng”. Tất cả đều phơi bày Vương Lập Quân và Bạc Hy Lai câu kết theo gót tập đoàn Giang Trạch Dân tàn khốc bức hại Pháp Luân Công, và kéo ra tấm màn đen tội ác mổ lấy nội tạng.
Phim “Lửa giả” vạch trần chân tướng tự thiêu một lần được bỏ cấm
Ngày 23 tháng 3, trên mạng Baidu, người ta có thể tìm thấy “Lửa giả” (http://www.falsefire.com), bộ phim tài liệu do Đài truyền hình Tân Đường Nhân chế tác vạch trần chân tướng đằng sau “vụ tự thiêu tại Thiên An Môn” xảy ra chiều ngày 23 tháng 1 năm 2001. Bộ phim đã đoạt giải Liên hoan phim Columbus lần thứ 51.
Bộ phim đã phân tích rất nhiều điểm đáng ngờ trong “vụ án tự thiêu” này: Chẳng hạn, chỉ trong một thời gian cực ngắn, Tân Hoa Xã của ĐCSTQ đã chạy tin “5 học viên Pháp Luân Công tự thiêu”. Qua phân tích băng quay chậm đoạn phim của CCTV, bộ phim “Lửa giả” đã chứng minh cô Lưu Xuân Linh, người phụ nữ 36 tuổi không có quan hệ gì với Pháp Luân Công, đã chết tại chỗ do một cú đánh từ một người vạm vỡ trên hiện trường. Bộ phim cũng giải thích tại sao nửa năm sau, đứa con gái 12 tuổi của cô Lưu lại chết bất thường, cũng như thật giả đằng sau nhân vật chính “Vương Tiến Đông”, v.v.
Ngày nay, trong khi cô gái trẻ đẹp bị bỏng đến mức không nhận ra – Trần Quả và mẹ cô vẫn còn đang bị giam lỏng, thì nhân vật được cho là người của công an – “Vương Tiến Đông” đã bốc hơi không biết hướng nào. Giới quan sát bên ngoài cho rằng, vụ án “tự thiêu tại Thiên An Môn” này chính là do La Cán, cựu Bí thư Ủy ban Chính trị và Luật pháp ĐCSTQ chế tác, và được xưng là “vụ lừa dối thế kỷ”.
“Chân tướng Pháp Luân Công” – tử huyệt của tập đoàn Giang Trạch Dân
Ông Thạch Tàng Sơn, chuyên gia vấn đề Trung Quốc tại Washington D.C cho rằng, trong cuộc đấu đá nội bộ kịch liệt hiện nay của ĐCSTQ, phe Hồ-Ôn muốn lấy danh nghĩa chống hủ bại, đấu tranh đường lối để đánh vỡ phe phái Giang Trạch Dân. Nhằm huy động lực lượng chính trị và đạo đức, họ đã đưa ra ánh sáng một loạt chân tướng đằng sau các tội ác như mổ cướp nội tạng,… để dân chúng Trung Quốc nhìn thấy Chu Vĩnh Khang, Giang Trạch Dân bao năm qua đã phạm phải tội ác khiến người dân phẫn nộ như thế nào. Ông cho rằng, dân chúng Trung Quốc nhất định sẽ yêu cầu trừng trị những kẻ ác trong hệ thống chính trị-tư pháp.
Ông Thạch Tàng Sơn nói, nếu như Hồ-Ôn có thể tiếp tục phơi bày tội ác của Giang Trạch Dân và Chu Vĩnh Khang, để dân chúng nhìn thấy chân tướng, lại thuận theo ý dân mà trừng trị kẻ xấu, thì họ sẽ có thể chiếm cứ điểm cao chính nghĩa và đạo đức trong cuộc nội đấu tại Trung Nam Hải. Ngoài ra, điều này sẽ đánh trúng chỗ hiểm trí tử của phe phái Giang Trạch Dân, giành được nhân tâm, cục diện Trung Quốc sẽ đi theo hướng bình ổn quá độ, đây chính là lối thoát tương lai của Trung Quốc.
Đúng như lời thề của ông Ôn Gia Bảo trong cuộc họp báo ngày 14 tháng 3, kết quả xử lý sự kiện Vương Lập Quân đã chứng tỏ “trải qua kiểm nghiệm của pháp luật và lịch sử”.
Hơn 50 quan chức cấp cao ĐCSTQ bị khởi tố tại 30 quốc gia trên toàn cầu
Pháp Luân Công là một công pháp tu luyện lấy “Chân-Thiện-Nhẫn” làm nguyên tắc chỉ đạo, từ đó đạt đến bình hòa và hoàn thiện về tự ngã. Pháp môn tu tâm dưỡng tính cổ xưa này được truyền ra từ năm 1992 tại thành phố Trường Xuân bởi ông Lý Hồng Chí, và tới năm 1999 đã phổ biến tới hơn 50 quốc gia trên thế giới, giúp hàng triệu người thu được lợi ích.
Tuy nhiên, do số người tập Pháp Luân Công ngày càng nhiều tại Trung Quốc, nên tháng 7 năm 1999, cựu Bí thư ĐCSTQ là Giang Trạch Dân cảm thấy khủng hoảng bất an, và đã phát động một cuộc vận động trấn áp tàn khốc Pháp Luân Công.
Hơn 10 năm qua, từ chứng cứ giả “1.400 cái chết”, đến vụ án giả “tự thiêu tại Thiên An Môn”, cho tới mổ lấy nội tạng học viên Pháp Luân Công, đây đều là các tội ác mà tập đoàn Giang Trạch Dân phạm phải. Tới nay, Giang Trạch Dân và những người đồng lõa, bao gồm Bạc Hy Lai, Chu Vĩnh Khang, v.v. hơn 50 quan chức cấp cao ĐCSTQ, đã bị khởi tố tại 30 quốc gia trên thế giới với tội ác diệt chủng và chống lại loài người.

Nguồn : http://anhbasam.wordpress.com/2012/03/27/838-on-gia-bao-de-xuat-giai-oan-cho-phap-luan-cong/

Chương Chín: Chuyện John


Nhìn Vào Mắt
Muốn Có Bạn
Không Hiểu Tình Cảm
Trò Chuyện, Giao Tiếp
Phát Triển của Não Bộ
Hội Nhập
Định Bệnh
Hôn Nhân
John Robinson có chứng AS mà không ai biết, mãi về sau trong lứa tuổi 40 anh mới khám phá ra tình trạng của mình. Phần dưới đây trích từ quyển tự thuật của anh Look At Me In the Eye.

● Nhìn Vào Mắt
John kể là từ lúc nhỏ, anh phải nghe không biết bao lần câu nói:
- Nhìn vào mắt tôi đây, chú bé !
Chuyện bắt đầu vào lúc anh đi trường ở lớp một, và nghe cha mẹ, bà con, thầy cô, hiệu trưởng cùng bao nhiêu người khác bảo vậy. Khi thầy lấy cây thước chọc vào tay anh và nói:
- Nhìn vào thầy trong lúc thầy nói chuyện với em !
thì John luống cuống và tiếp tục nhìn xuống sàn, làm thầy giận thêm. Anh liếc nhìn mặt thầy bực bội, hóa bối rối thêm, càng thấy không thoải mái và nghĩ không ra chữ nào khiến anh lẹ làng ngó sang chỗ khác. Ba anh thì hỏi:
- Nhìn ba nè, con dấu chuyện gì đó ?
- Không có dấu gì hết.
John nhìn vào bất cứ vật gì ngoại trừ ba, khiến ba chộp John để đánh và John bỏ chạy.
Mọi người tưởng là họ hiểu được hành vi của anh, anh không nhìn vào mắt thì họ nghĩ rất giản dị là John là kẻ vô dụng.
- Không ai tin tưởng người nào không chịu nhìn vào mắt.
- Trông em như côn đồ.
- Cháu có mưu tính gì đây, bác biết mà.
Trong đa số trường hợp John chẳng có mưu mô gì cả. Anh không biết tại sao người khác giận dữ, và càng không hiểu nhìn vào mắt người khác nghĩa là gì. Ai cũng nói:
- Tôi đọc nhiều chuyện về loại người giống như anh. Họ không lộ ra nét gì vì họ không có cảm xúc, nhiều kẻ giống vậy là sát nhân giết người hàng loạt.
John thấy xấu hổ, anh tin lời người ta vì nhiều người nói thế, và cảm nghĩ là mình
kém cỏi làm em nhỏ đau lòng. Chú bé hóa ra nhút nhát hơn, thu mình lại nhiều hơn và tự hỏi khi lớn lên mình có thành người xấu, có thành kẻ sát nhân ? Anh ngẫm nghĩ hoài về những điều này và phải đợi tới tuổi thiếu niên John mới hiểu ra rằng mình không phải là kẻ giết người hay tệ hơn thế.
Tới lúc ấy, John hiểu mình không có dấu diếm gì khi không nhìn vào mắt ai, và bắt đầu thắc mắc tại sao nhiều người lớn cho hành vi ấy cùng nghĩa với tính không thẳng thắn, muốn che dấu. Cũng vào lúc đó John đã gặp mấy kẻ bất lương mà họ lại nhìn thẳng vào mắt anh, làm anh nghĩ rằng ai than phiền về anh là người giả dối.
Ngày nay, John vẫn thấy việc nhìn cảnh vật làm chia trí anh. Lúc nhỏ nếu thấy chuyện gì thú vị anh có thể bắt đầu theo dõi vật và ngưng hẳn im lặng hoàn toàn không nói. Lúc trưởng thành thì anh không nhất thiết ngưng hẳn lại, nhưng có thể anh vẫn ngưng khi có gì đập vào mắt anh. Đó là lý do tại sao anh nhìn vơ vẩn chỗ nào lặng lẽ – như dưới đất hay nhìn ra xa – khi nói chuyện với người khác. Bởi lẽ vừa nói vừa nhìn vật là chuyện khó đối với anh, học lái xe và nói cùng một lúc là điều rất khó làm nhưng John cũng làm được.
Nay đã có kinh nghiệm, John biết việc không nhìn vào mắt người khác khi nói chuyện đối với anh là tự nhiên, vì người có chứng Asperger (Asperger syndrome AS) không thấy thoải mái khi làm vậy; cũng như anh không hiểu tại sao nhìn chằm chằm vào mắt ai lại là chuyện tự nhiên. John hân hoan là sau chót anh hiểu tại sao mình có tật, vì anh có chứng AS; nhưng anh cũng không khỏi buồn là giá mà anh có định bệnh lúc nhỏ, hẳn anh đã tránh được nhiều chuyện đau lòng.
● Muốn Có Bạn
Ngay từ khi rất bé, anh đã lộ ra tật mà không ai biết để giúp. Cha mẹ biết con mình khác với những trẻ khác, tuy mới chập chững tập đi mà John đã bước cứng ngắc, máy móc, đi lại vụng về. Nét mặt thì trơ trơ và ít khi cười. Thường khi em nhỏ không đáp ứng chút gì với người khác, xử sự như thể họ không có ở đó. Đa số thời gian John chơi một mình trong thế giới của riêng anh, tách biệt với bạn bè; mà khi tương tác với những trẻ khác thì hành động thường vụng về, không ngó mặt ai. Nhìn lại John bảo tuổi thơ anh cô đơn, và trưởng thành là chặng đường đau khổ.
Lúc mới đi học và gặp những trẻ khác, John rất thích thú muốn đến chơi với chúng, nhưng các trẻ này lại không muốn chơi với John và chú nhỏ không hiểu tại sao; chú đặc biệt thích chơi với một bé gái tên Chuckie. Tới giờ ra chơi, John đi về phía Chuckie và vỗ nhẹ lên đầu bạn. Ở nhà mẹ dạy John vuốt ve đầu con chó để làm thân, và khi nào John khó ngủ thì mẹ cũng xoa đầu cho con; vì thế John tin vuốt đầu là chuyện tốt. Con chó nào mà mẹ kêu John xoa đầu cũng vẫy đuôi vui vẻ, tỏ ra thích thú. Thế thì Jim nghĩ Chuckie cũng thích vậy.
Nhưng không, bé gái lại đập vào người cu cậu. Kinh ngạc, John bỏ chạy. Chú nghĩ thầm có lẽ phải vuốt đầu lâu hơn để làm bạn, và nếu lấy cây xoa nhẹ thì chắc Chuckie sẽ không đánh mình. Nghĩ là làm nhưng cô giáo lại can thiệp.
- John, để yên Chuckie. Đừng lấy cây đánh bạn.
- Em không có đánh bạn. Em muốn xoa đầu bạn.
- Người ta không phải chó, em không vuốt ve đầu ai, và không được dùng cây.
Chuckie tránh xa John suốt ngày hôm ấy nhưng John không bỏ cuộc. Hôm sau em thấy bạn ngồi chơi xe hàng trong hố cát, John biết nhiều về xe hàng và thấy Chuckie không biết chơi đúng cách, nên muốn chỉ bạn cách chơi. John tin làm vậy Chuckie sẽ
phục mình và hai trẻ sẽ thành bạn. Chú đi về phía bé gái, lấy xe hàng khỏi tay em nhỏ và ngồi xuống.
- Cô ơi, John lấy xe hàng của em.
Bé gái phản ứng thật lẹ làng.
- Em không có lấy ! Em muốn chỉ cho bạn cách chơi thôi ! Bạn không biết cách chơi !
Nhưng cô giáo lại tin Chuckie mà không tin John. Cô dẫn John ra chỗ khác, cho John cái xe hàng để chơi riêng. Hôm sau John lại nghĩ ra cách khác để kết bạn, lần này em sẽ nói chuyện với Chuckie, kể chuyện khủng long cho bạn nghe. John biết nhiều về khủng long vì ở nhà ba dẫn em đi viện bảo tàng cho xem; đối với John khủng long là vật thích thú nhất mà em biết.
Nay John đi tới chỗ bạn rồi ngồi bên cạnh.
- Tôi thích khủng long, con mà tôi thích nhất là brontosaurus. Nó lớn lắm.
Chuckie làm thinh.
- Nó thật là lớn nhưng nó chỉ ăn rau, ăn cỏ, ăn cây thôi.
- Nó có cái cổ dài và cái đuôi cũng dài.
Yên lặng.
- Nó lớn như cái xe bus.
- Nhưng con allosaurus lại có thể ăn thịt nó.
Chuckie vẫn không nói gì, chỉ nhìn chăm chăm xuống đất.
- Tôi đi coi khủng long ở viện bảo tàng với ba tôi.
- Cũng có khủng long nhỏ nữa. Coi nó ngộ lắm.
Bé gái đứng dậy bỏ đi vào lớp. John thấy bao gắng công muốn kết bạn đều thất bại nên òa ra khóc, tung hê đồ chơi trong sân trường, tự hỏi tại sao không có bạn nào muốn chơi với em. John chỉ muốn co tròn người lại và biến mất trên đời, xấu hổ quá không muốn vào lớp phải gặp mặt các bạn.
Nay khi đã hơn 50 tuổi và viết sách, nhìn lại John nói mình vẫn vậy, sự khác biệt chỉ là anh học được điều gì mà người ta mong đợi anh xử sự trong cảnh này và có thể vờ như mình là người bình thường, cách ấy khiến anh không làm mất lòng ai, nhưng anh biết sự khác biệt giữa anh và người khác vẫn còn đó, mãi không hề mất đi.
John hiểu rằng người có AS không có sự thông cảm, không hiểu được trí người, điều mà bình thường hướng dẫn người khác trong cách đối xử với nhau. Đó là lý do tại sao John không hề nghĩ là Chuckie có thể không phản ứng với chuyện vuốt ve cùng một cách như con chó. Anh không thấy sự khác biệt giữa một em nhỏ và một con chó cỡ vừa, cũng như anh không hề nghĩ là có thể có nhiều cách chơi xe hàng, thành ra anh không hiểu tại sao bạn lại phản đối không chịu để anh chỉ cách chơi xe.
Khi khác nhìn các trẻ ngoài đường chơi cao bồi và mọi da đỏ John cũng muốn nhập bọn mà không được:
- Mày làm gì vậy ? Mày không phải cao bồi !
Anh đáp,
- Tôi cũng là cao bồi !
- Không, không phải, mày là mặt ngựa !
John tức giận, buồn rầu và xấu hổ, nghĩ mình không bao giờ chơi được với ai. Tại sao như vậy chứ ? John chạy về nhà, òa ra nức nở. Mẹ mới bế lên lòng và hỏi:
- Sao con, có chuyện gì vậy ? John thổn thức đáp:
- Con không có bạn, không ai chịu chơi với con !
Mẹ không biết nói sao nên chỉ vỗ về con, và rồi John ngồi xuống chơi với xe ủi
đất. Xe không bao giờ xấu bụng với John, anh luôn luôn chơi được với máy móc, ngay từ lúc nhỏ.
Tới sinh nhật, ba mẹ cũng có bánh, có quà cho con, và mọi người ca hát vui vẻ; nhưng khi John được mời dự sinh nhật của những trẻ khác, anh thấy buổi tiệc ở đó có đông trẻ con hơn, cười đùa la hét ầm ĩ, thật là vui, không giống như sinh nhật ỉu xìu của mình, không có bạn nào tụ lại quanh John. Anh không hiểu tại sao mà cảm biết lờ mờ rằng tình cảnh của bạn vui hơn của mình, cũng như rất đau lòng khi thấy không được vui như bạn, nỗi cô đơn như nghiền nát tim anh. Ở trường thì thầy cô bắt đầu tiên đoán tương lai của John, bảo rằng anh sẽ không làm nên trò trống gì, chỉ có thể đi hốt rác hoặc vào lính nếu quân đội chịu chứa anh.
Nhưng anh sẽ cho họ biết.
John không tới gần Chuckie nữa, mà cũng không tìm cách chơi với trẻ nào khác. Càng bị hất hủi John càng bị tổn thương và càng khép kín lại, rồi John có hành vi mà người ta thường thấy nơi ai có chứng AS là quay sang chơi với người lớn hơn hoặc trẻ nhỏ hơn mình, và thành công, được chấp nhận. Những câu nói trật chìa của trẻ AS không làm người lớn bực mình, mà họ lại nương theo đó tiếp tục chuyện, và nếu trẻ có hành vi nào khác thường như lấy que vỗ đầu họ thì người lớn không la hét chạy đi mét thầy cô làm trẻ xấu hổ, họ chỉ lấy đi cái que. Người lớn lại giải thích sự việc cho trẻ nghe nên John học thêm được nhiều điều. Phân tích thêm nữa thì người lớn đến với trẻ trước và mở lời, thay vì trẻ phải gợi chuyện như với Chuckie. Người lớn thích nghi với hành vi, câu nói khác đời của John, nhưng bạn cùng tuổi thì bực bội hoặc tức giận.
Đa số thời giờ thì John chơi một mình với đồ chơi. Đồ chơi không làm John buồn bực, nó có thể khó chơi và phải ngẫm nghĩ mới tìm ra được cách chơi, nhưng nó không hề gạt người hay làm người ta bị đau lòng. John làm chủ được cuộc chơi, được an toàn trong khi chơi và thích như thế. Hệ quả là người AS hiểu được thế giới của vật rành hơn thế giới của người. Với trẻ nhỏ thì bởi John lớn hơn và biết nhiều hơn, em chỉ cho trẻ nhỏ hơn mình nhiều việc, chiếm được lòng kính phục của trẻ này và cảm thấy vui lòng. Trẻ nhỏ cũng không chế nhạo John như các bạn đồng tuổi, làm cho mối liên hệ được vui vẻ hơn.
Tới năm chín tuổi John khám phá ra được cách nói chuyện với trẻ khác. Khám phá này làm thay đổi đời em nhỏ. Đột nhiên John ý thức là khi bạn nói:
- Coi xe hàng Toyota của tôi này.
thì trẻ chờ câu trả lời hợp với điều em vừa cho biết. Lúc chưa khám phá ra câu đáp thích hợp, John có thể đáp lại bằng một trong những câu sau:
a- Tôi có phi cơ trực thăng.
b- Tôi muốn ăn bánh.
c- Hôm nay mẹ tôi giận tôi.
d- Tôi được cỡi ngựa ở chợ phiên.
Có những câu trả lời trên vì John quá quen với việc sống trong thế giới riêng của mình nên trả lời bất cứ điều gì mà em đang nghĩ. Nếu đang nhớ tới việc cỡi ngựa ở chợ phiên thì khi trẻ khác đến với John và nói:
- Coi xe hàng của tôi đây ! hoặc:
- Mẹ tôi đang nằm ở bệnh viện.
thì John vẫn cứ trả lời:
- Tôi được cỡi ngựa ở chợ phiên.
Lời nói của trẻ khác không làm thay đổi dòng tư tưởng của John, nó làm như em không nghe bạn nói nhưng ở một mức nào đó John có nghe, vì em trả lời, cho dù câu
trả lời không có nghĩa đối với ai nói chuyện với em.
Khám phá mới làm thay đổi cách nói ấy. Bất chợt em ý thức là câu trả lời mà trẻ khác muốn nghe, câu trả lời đúng, là:
- Xe bảnh quá ! Cho tôi cầm được không ?
Điều quan trọng hơn nữa mà anh nhận biết là bốn câu trả lời a, b, c, d ở trên đều trật đường rầy làm trẻ khác bực bội. Nay anh hiểu vì sao nhiều trẻ làm ngơ với anh. Sau khi đột nhiên hiểu chuyện, câu đáp của John làm người khác chấp nhận và cho anh dự vào cuộc chơi, anh có thể tham dự cuộc chuyện trò cũng như câu chuyện không còn bị khựng lại ngang xương, và sự việc bắt đầu khá hơn. Kỹ năng mới này khiến anh bắt đầu có bạn.
● Không Hiểu Tình Cảm
Tính khí khác người của John gây ra nhiều hiểu lầm. Có lần Betsy bạn của mẹ tới chơi, John thơ thẩn đi qua lại trong phòng khách lúc hai người đang ngồi nói chuyện. Betsy kể:
- Chị nghe chuyện con trai của Eleanor Parker chưa ? Hồi thứ bẩy trước, thằng bé ngồi chơi trên đường rầy nên bị xe lửa đụng thiệt mạng rồi.
John mỉm cười khi nghe kể vậy, nhưng Betsy quay sang lộ vẻ kinh ngạc:
- Sao ? Cháu xem đó là trò đùa à ?
John thấy ngượng nghịu và bị mắc cỡ một chút.
- Dạ không ạ.
rồi lủi mất. Em không biết phải nói sao. Em biết người ta nghĩ em cười là xấu, nhưng em không biết tại sao mình cười, cũng như không cưỡng lại được. John lủi thủi ra khỏi phòng còn Betsy thì cầu nhầu:
- Thằng bé có chuyện gì vậy ?
Cha mẹ gửi em nhỏ đi trị liệu, mà chuyên gia nào cũng chú tâm vào điều trật lất. Trong đa số trường hợp họ làm John thấy tệ hơn, vì họ đào sâu chuyện gọi là tật xấu và tư tưởng tội phạm. Không ai nghĩ ra được tại sao John lại cười khi nghe là con của bà Parker bị xe lửa cán, nhưng chính em biết do tự suy luận.
John nghĩ như vầy, em thực ra không biết bà Parker cũng như không quen biết con của bà, thế nên không có lý do nào để John thấy vui hay buồn về chuyện gì xẩy ra cho chúng, và trong óc diễn ra tư tưởng như sau:
Có người bị thiệt mạng.
Úi trời, may mắn là tôi không bị chết.
Tôi mừng là em trai và ba mẹ tôi không bị chết.
Tôi mừng là tất cả các bạn của tôi được vô sự.
Thằng bé hẳn phải ngốc mới ngồi chơi trên đường rầy xe lửa.
Tôi sẽ không bao giờ bị xe lửa đụng như vậy.
Tôi mừng là mình được bình an.
Và John mỉm cười vì cảm thấy nhẹ nhõm trong lòng. Ngày nay cảm xúc của anh cũng sẽ y như thế trong cùng cảnh ngộ, chỉ có khác biệt là nay anh biết cách làm thích nghi nét mặt của mình. Bạn có thể gọi thái độ của John là sự 'thông cảm hợp lý' với người anh không quen biết. Nó có nghĩa John hiểu rằng có ai tử nạn khi phi cơ rơi là chuyện đáng tiếc, và cũng hiểu những người ấy có gia đình và họ sẽ đau khổ; nhưng anh không thấy có liên hệ gì với tin đó. Hằng ngày có cả ngàn người thiệt mạng vì đủ
mọi nguyên do, John nghĩ mình phải nhìn sự việc đúng tầm mức và để giờ lo lắng chuyện nào thực sự quan trọng đối với anh.
Vì suy nghĩ theo lý lẽ, John không khỏi nghĩ rằng dựa trên chứng cớ, nhiều người bầy tỏ phản ứng mạnh mẽ với tin xấu liên hệ đến người khác là giả dối. Điều ấy làm anh suy nghĩ. Ai như vậy hay òa ra khóc khi nghe tin xấu đâu đó trên thế giới chỗ xa lắc xa lơ. Anh thấy họ không khác gì kịch sĩ, hễ muốn là khóc được, mà như vậy thực sự có nghĩa gì ? Thỉnh thoảng chính mấy người này quay sang John và nói:
- Em có mắc chứng gì không ? Sao không nói năng gì hết ? Em không quan tâm là họ bị thiệt mạng à ? Họ cũng có gia đình, em biết chứ !
Càng lớn anh càng bị rắc rối vì nói sự thật mà người khác không muốn nghe. John không biết tế nhị, nhưng dần dần học được cách tránh nói điều anh nghĩ. Anh vẫn còn nghĩ như vậy, chỉ có điều không lộ ra nhiều như trước.
● Trò Chuyện, Giao Tiếp.
Người AS nói thẳng những điều cần xử sự tế nhị. Khi chú Bob ly dị rồi lập gia đình lần thứ hai, trong đám cưới John hỏi:
- Chú ơi, chú phải lập gia đình mấy lần thì mới ở với nhau luôn ?
Sau đó không ai mời John đi ăn cưới nữa, kể cả ba của anh khi ông có vợ hai.
Nhiều người Asperger thích máy móc, đôi khi John nghĩ mình thân với một cái máy tốt hơn là với bất cứ ai. Suy nghĩ về điều này và John tin là có vài nguyên nhân. Một là anh kiểm soát được máy móc, anh và máy móc không bình đẳng với nhau, dù cái máy có lớn ra sao thì anh cũng vẫn là người điều khiển. Kế đó máy không biết trả lời, anh lại có thể tiên liệu được với máy. Máy không gạt anh và không bao giờ xấu bụng.
Ngược lại anh gặp nhiều khó khăn trong cách xử sự với người khác. John không thể biết là người ta thích anh hoặc không thích, hoặc tức bực, hoặc đang chờ anh mở miệng nói điều gì, khi nhìn người ta. Anh không có vấn đề như vậy với máy móc.
John suy nghĩ theo lý lẽ, đó là một đặc tính của hội chứng Asperger, tuy nhiên nó có thể dẫn tới trục trặc khi giao tiếp vì câu chuyện bình thường không phải lúc nào cũng diễn ra hợp lý. Chẳng hạn khi cô bạn Laurie bảo anh:
- Tôi có người bạn đang thân với một anh hay lắm, anh chàng lái xe mô tô giống như xe anh vậy.
Câu nói đó gây ra vấn đề cho John, là nó không bắt đầu bằng câu hỏi như trong đa số tương tác khác. Vậy anh đáp lại ra sao ? Anh ngẫm nghĩ điều mình vừa mới nghe:
- Laurie có bạn gái, ai vậy ?
- Bạn gái đang thân với một người. Sao kể cho anh nghe ? Anh có biết cô ta, biết chàng kia không ?
- Xe mô tô giống như xe John. Laurie biết gì về xe mô tô ? Phải cô muốn nói xe hiệu Harley Davidson, hay cô muốn nói nó mầu đen ?
John không biết phải trả lời ra sao cho hợp với câu nói của Laurie, anh cúi gầm mặt ngó sàn nhà nghĩ coi phải làm gì, và phải nghĩ cho nhanh bằng không thiên hạ sẽ hỏi:
- Anh có nghe tôi nói gì không ? hoặc,
- Anh có chú ý không ?
Anh biết Laurie đang chờ câu đáp có liên quan đến điều cô vừa nói. John nghĩ mình cần thu thập nhiều chi tiết cho tới khi có thể trò chuyện một cách thông minh, nên
anh hỏi:
- Cô bạn nào vậy ?
Laurie tỏ ra ngạc nhiên.
- Anh muốn biết chi vậy ?
John không dè bị hỏi ngược lại, nên hỏi Laurie là tại sao cô lại tỏ ý nghi ngờ. Cô trả lời bằng nhiều câu hỏi hơn nữa:
- Tại sao anh muốn biết chứ ? Tôi nói anh nghe thì có lợi gì ? Lỡ anh bạn của cô ta biết thì sao ?
Về sau tình cờ John biết được câu đáp khi nghe chuyện tương tự trong nhà hàng:
- Jenny thân với anh ta lắm, và anh chàng lái xe Corvette.
Câu mở đầu sao mà giống chuyện của anh quá, nên John chăm chú theo dõi.
- Bảnh quá chớ ! Anh ta có cô nào khác nữa không ?
Nghe như vậy thì rõ ràng đây là câu trả lời đúng. John đột nhiên hiểu rằng câu nói của Laurie là để nghe cho vui, hoặc để làm anh phục và câu đáp phải là việc tỏ ý thán phục hoặc thích thú, nhưng lúc đó anh không nghĩ ra. Nay John thấy rõ là người bình thường có khả năng trò chuyện cao hơn anh, và câu đáp của họ nhiều khi không có lý lẽ chi hết.
Trò chuyện – hay bất cứ loại nói chuyện gì ngoài việc trao đổi thông tin – luôn luôn là thách đố cho John. Khi còn nhỏ, anh học được là người ta không thích việc anh nghĩ sao nói vậy, nay có khám phá này John từ từ dạy mình cách nói sao cho vừa lòng người. Anh muốn người chung quanh quí mến anh, đừng nghĩ rằng anh mát dây nên ráng tập nói những điều mà 'người bình thường' nói.
Dầu vậy cũng có giới hạn. Hồi trước, khi bị trách móc là hỏi những câu bất ngờ thì anh cảm thấy xấu hổ; nay anh ý thức là người bình thường xử sự nông cạn và thường khi không thật lòng, nên thay vì để lời chê trách của họ làm anh ngượng nghịu, John nói ra sự bực dọc của mình. Đó là cách anh trưng ra việc cần có sự hợp lý, thuận lẽ khi nói chuyện.
Khó khăn của anh làm nổi bật hơn một vấn đề mà người AS gặp phải hằng ngày. Ai có khuyết tật rõ ràng, thí dụ như dùng xe lăn, thì được đối xử với lòng nhân vì nó hiển hiện. Không ai bảo người ngồi xe lăn rằng:
- Mau, tụi mình chạy băng qua đường !
và khi người này không thể chạy băng qua đường thì không ai nói:
- Anh ta mắc chứng gì vậy ?
mà sẽ đề nghị đưa họ qua đường. Với John thì không có dấu hiệu nào bên ngoài cho thấy anh bị khuyết tật về trò chuyện, thành ra khi nghe anh nói không hợp tai thì người ta phản ứng ngay:
- Ăn nói gì mà kỳ cục !
John mong sẽ tới ngày sự khiếm khuyết của anh cũng được nhìn nhận y như cho ai dùng xe lăn. (Đây cũng là ý của chuyên gia trình bầy trong chương tám.) Dù sao cũng may mắn là công việc của John là kỹ sư âm thanh trong công ty điện tử không đòi hỏi anh phải biết tiếp chuyện xã giao, mà tài năng là đủ để anh được kính trọng. John hài lòng với công việc này vì anh thích làm việc với máy móc, và bạn đồng nghiệp cũng có chung sở thích nên anh không thấy lạc lõng, John thấy phấn khởi với cuộc sống của mình.
Vài năm sau, anh được lên chức làm giám đốc về nghiên cứu và phát triển trong công ty, đó là sự thăng tiến đáng mừng nhưng vấn đề là càng lên chức cao thì công
việc chuyên môn bớt đi, mà thuật giao tiếp trở nên quan trọng dần. Trong chức vụ mới John phải dùng kỹ năng giao tiếp nhiều hơn là tài năng về kỹ thuật và óc sáng tạo, và đối với người AS đó là tai họa phải tránh. Nay John có văn phòng lớn hơn, phải mặc đồ lớn đi làm, có thư ký ngồi ở tiền phòng và dưới quyền anh có 20 nhân viên. Tuy nhiên anh không hạnh phúc, với công việc trước anh dùng óc sáng tạo và thấy đó là việc làm thú vị, còn nay với chức giám đốc anh không thấy hứng thú, và nhận ra rằng được thăng chức làm văn phòng thay vì miệt mài sáng tạo sản phẩm là sai lầm.
John cũng khám phá anh không thích hợp với nhóm, mà thích làm việc một mình hơn. Anh khéo léo và có óc sáng tạo nhưng vẫn là kẻ lạc loài, không hòa hợp được với nhóm, với công ty. John bắt buộc phải đối đầu với sự thực là anh không nên cố gắng ép mình vào điều gì mà anh không thể thuộc về. Hồi nhỏ lúc năm tuổi, anh mong được thuộc về một toán trẻ con hơn bất cứ điều gì, nhưng không được, không bạn nào chịu nhận anh vào toán. Tủi thân, John không hề tìm cách được nhập bọn nữa nhưng nay đi làm, phải mất 10 năm anh mới nhận ra sự thực là cố gắng hòa hợp trong toán chỉ hoài công.
John có quan sát đáng chú ý sau. Có những giai đoạn anh hướng nội, khi đó khả năng làm những phép toán phức tạp trong đầu phát triển mau lẹ, dẫn tới khả năng giải đáp vấn đề kỹ thuật phức tạp hoặc toán tăng vọt, song song với việc anh tránh né mọi người. Lại có những lúc khả năng của anh quay ra ngoài hướng vào thế giới của người và thế giới tăng bội, trong cảnh ấy, làm như khả năng tranh biện hướng vào lý luận hợp lẽ giảm đi. John tin rằng một số trẻ tự kỷ có trí tuệ từ trung bình đến cao giống như anh, mà không nhận được kích thích đúng mức khiến chúng hướng nội tới độ không còn sinh hoạt được trong xã hội, cho dù có thể hết sức giỏi dang về một ngành riêng biệt nào đó, như giỏi toán.
● Phát Triển của Não Bộ
Khoa học gia cho rằng não bộ có tính mềm dẻo, có thể sắp đặt lại đường thần kinh dựa trên kinh nghiệm mới, và làm như có nhiều tính mềm dẻo nổi bật vào những tuổi khác nhau. Nhìn lại tuổi thơ của mình, John cho rằng khoảng thời gian từ bốn đến bẩy tuổi là lúc quan trọng cho sự phát triển về mặt giao tiếp của mình. Đó là lúc anh đau khổ và òa khóc vì không thể kết bạn. Vào những lúc ấy, John có thể tránh xa người khác hơn nữa để không bị tổn thương. May sao anh có giao tiếp thỏa mãn với người lớn thông minh – như gia đình và bạn của cha mẹ ở đại học – làm anh tiếp tục muốn tương tác.
Giai đoạn quan trọng khác mà John tin là não bộ anh có sắp xếp lại đường thần kinh là trong tuổi ba mươi và sau đó, bởi anh có thể so sánh cách suy nghĩ của mình ngày nay với cách suy nghĩ thấy qua lối viết và các mẫu thiết kế điện tử anh làm 25 năm về trước. Những bài anh viết khi đó nay đọc phẳng lì, không có chiều sâu hoặc tình cảm. Anh không viết về cảm xúc của mình vì không hiểu nó; còn bây giờ hiểu biết về cuộc sống tình cảm của mình làm anh biểu lộ được nó, bằng lời lẫn trên giấy. Nhưng phải đánh đổi mới có việc gia tăng óc thông minh tình cảm, đó là khi nhìn vào những mạch điện mà anh đã thiết kế 20 năm về trước thì có vẻ như ai khác đã nghĩ ra chúng mà không phải anh.
Một số những thiết kế quả thực là sáng tạo thiện xảo, nhiều người bảo anh chúng biểu hiện thiên tài và ngày nay John không hiểu làm sao anh đã nghĩ ra chúng. Nhìn vào họa đồ của mạch điện, vào tính sáng tạo kỹ thuật của mạch, đôi khi anh có cảm
tưởng như tài năng sáng chói của mình lu mờ dần. Những mẫu này là kết quả của một phần trí não của anh mà nay đã mất, anh không bao giờ còn có thể sáng tạo ra mạch điện như thế được nữa. Anh có thể nghĩ ra hình ảnh nhưng phải có ai khác để vẽ ra mạch điện.
Đây không phải là câu chuyện buồn, vì trí não anh không tàn tạ hoặc chết đi, nó chỉ sắp xếp lại. John tin chắc trí não anh có khả năng y như trước, chỉ có điều nay nó phân bố ra nhiều mặt rộng hơn. Cách đây 30 năm không ai có thể nhìn anh và tiên đoán những kỹ năng giao tiếp mà anh có ngày nay, hoặc khả năng biểu lộ được tình cảm, tư tưởng và cảm xúc mà John ghi trong sách. Ngay cả anh cũng không sao tiên đoán được vậy, nhưng nói chung thì đó là sự đánh đổi tốt đẹp. Thiên tài sáng tạo không hề giúp anh có bạn, và chắc chắn là không làm anh hạnh phúc. Đời anh ngày nay vui hơn, phong phú hơn và trọn vẹn hơn vô kể, như là kết quả của việc não bộ tiếp tục phát triển.
John cho rằng hồi còn nhỏ, người lớn khuyến khích đủ làm cho anh chịu giao tiếp và nhờ vậy sinh hoạt được trong xã hội. Người lớn biết cách xử sự với khiếm khuyết về giao tiếp của anh khá hơn là trẻ con như bạn học của John, họ có thể theo với câu trả lời trật đường rầy không ăn nhịp của John, và nhiều phần là họ sẽ tỏ ý quan tâm với bất cứ chuyện gì anh nói, dù lạ đời ra sau cũng mặc. Nếu anh không được người lớn chịu để ý tới anh và khuyến khích, có thể anh sẽ lạc sâu thêm vào chứng tự kỷ, và không chịu liên lạc tiếp xúc nữa. Cho tới năm 16 tuổi, anh rất dễ thu vào vỏ ốc của mình, không giao tiếp với người và chỉ sống trong thế giới riêng của trí não anh.
Nhìn lại, John thấy có thể có con đường dẫn anh tới chỗ nào đó xa tít mù tắp trong thế giới của chứng tự kỷ, chỗ của những người tự kỷ có tài năng đặc biệt như biết được ngày trong tuần của bất cứ ngày nào trong quá khứ và tương lai, rút được căn số của số có hàng chục số hạng v.v. Bởi anh có tài với mạch điện và máy móc không hề xử tệ với anh. Có những mạch điện khó giải quyết nhưng chúng không bao giờ xấu bụng. Vào lúc anh bỏ học năm 16 tuổi, làm như anh đứng trước ngã ba đường phải quyết định rẽ sang một trong hai ngã, và anh đã chọn việc sống thế giới của người thay vì máy móc, cho dù bị đau khổ.
● Hội Nhập
Vì lý do sinh tồn phải tự mưu sinh từ nhỏ, John đã chọn cách hòa vào thế giới của người bình thường, rời xa thế giới của máy móc, mạch điện – cái thế giới thoải mái gồm mầu sắc lặng lẽ thay vì chói chang, ánh sáng nhẹ và sự toàn hảo máy móc –, bước vào thế giới của người là nơi có âu lo, chói mắt và đầy xáo trộn. Ba mươi năm sau, anh tin là trẻ tự kỷ nào chọn con đường ngược lại có thể không sinh hoạt được trong xã hội, và bởi là người AS mà thành công và hòa nhập được, John quan tâm nhiều đến ai tự kỷ không làm được như anh. Về lời mô tả người tự kỷ và AS như:
- 'không muốn có tiếp xúc với người khác', và
- 'thích chơi một mình'
John ghi rằng anh không thể nói thay cho người khác, nhưng có thể nói thật rõ ràng về cảm xúc của mình: anh không hề muốn chơi một mình; cũng như tất cả những tâm lý gia nhi đồng đã thẩm định anh và nói rằng 'John thích chơi một mình' là sai hoàn toàn. Anh chơi một mình vì không làm được trẻ khác chơi với anh. Anh bị cô đơn do giới hạn của chính mình, và cô đơn là một trong những nỗi thất vọng cay đắng nhất lúc nhỏ của John. Chuyện đau lòng hồi nhỏ vẫn theo đuổi khi anh trưởng thành, và mấy
chục năm sau dù đã biết mình có hội chứng Asperger, nỗi đau tiếp tục còn đó. Sự đau khổ do cách đối xử của những trẻ khác với mình từ nhỏ tới lớn làm anh giận dữ, nếu không khám phá ra điện tử và nhạc hẳn anh đã hư đời.
Trong tuổi thiếu niên rồi thanh niên, anh may mắn khám phá được thế giới của ban nhạc, nhạc sĩ, âm thanh; người trong các sinh hoạt này chấp nhận làm việc với ai tính khí lạ đời. Đối với họ John giỏi dang, có năng khiếu, có óc sáng tạo và như vậy là đủ. Khi anh từ bỏ thế giới ấy và vào làm kỹ sư âm thanh cho kỹ nghệ điện tử thì về vài mặt, đó có thể là nước cờ sai; bởi trong khi anh được hoan nghênh trong ban nhạc, những công ty anh làm lại không đối xử với anh giống vậy.
Lúc khởi đầu anh vẽ kiểu mạch điện, John ưa thích công việc này và tỏ ra có tài năng; 10 năm sau anh lên chức quản lý nhân viên và các chương trình của hãng, nhưng anh lại không giỏi về mặt quản trị người và cũng không thích làm việc ấy. Có lương cao, có địa vị, mà John không hạnh phúc. Anh nhớ lại hồi nhỏ mình giỏi máy móc, đã từng sửa những xe ai cũng chê làm chúng hoạt động được như mới, khi đó John nghiệm ra sự thực là ai có tiền cũng có thể mua được xe, nhưng chỉ ai có tài năng mới tu chỉnh được một xe hư thành xe tốt như mới.
Thế thì John quyết định bỏ công việc có địa vị, lương cao mà mở cửa hàng sửa xe loại sang như Rolls-Royce, Mercedes. Lúc ban đầu có chật vật và chỉ có mình anh, tuy nhiên 20 năm sau, thương nghiệp phát triển và là thành công lớn. Chắc chắn điều giúp anh thành đạt là kỹ năng chuyên môn, cộng thêm đặc tính của chứng AS là muốn biết hết mọi điều về một đề tài. John rất thích biết về máy móc xe hơi, và những vấn đề về mạch điện mà các thợ máy khác thường vò đầu bứt tai lại rất đơn giản đối với anh.
John liệt kê ra những tính chất AS khiến công việc phát triển. Lòng si mê muốn biết hết mọi chuyện về xe hơi khiến anh thành người sửa xe giỏi. Cách ăn nói chính xác làm anh có khả năng giải thích những vấn đề phức tạp bằng chữ đơn giản. Tính thẳng thừng không bóng gió xa xôi có nghĩa anh cho chủ xe hay những gì cần nghe về xe của họ, trong đa số trường hợp xem ra họ thích thế; và bởi không có khả năng hiểu được ngôn ngữ của điệu bộ, nét mặt, John không có tính kỳ thị mà đối đãi ai cũng như ai.
Không phải là chuyện gì cũng dễ cho anh. Quả anh có năng khiếu về máy móc, nhưng mở thương nghiệp sửa xe là chuyện khó vì nó đòi hỏi sử dụng một loại khả năng khác của trí não, loại mà anh không hề phát triển trong những năm sáng tạo mạch điện. John khám phá là mình phải học một loạt nhiều kỹ năng mới để làm vừa lòng và giữ được khách hàng, khiến họ trở lại nữa. May mắn sao những xe mà anh chọn để chuyên môn sửa đã giúp cho anh. Đó là những xe hạng đắt tiền và chủ nhân của chúng thường là thành phần dư giả và có học cao. Những ai như thế dễ dàng hòa hợp với người AS, và tài năng của anh là lý do khác khiến chủ xe đến với anh.
Khi làm việc cho công ty lớn, John chỉ phải tiếp xúc với ít người như bạn đồng sự, gia đình và thân hữu. Nay mở xưởng sửa xe anh đột nhiên phải giao tiếp với bá tánh, ai có xe hư đều có thể gọi anh và bắt buộc anh phải nói chuyện với họ, quả chưa bao giờ anh phải đối đầu với đủ mọi người như thế. Nhưng nó có lợi cho anh về nhiều mặt. Đầu tiên, khả năng tương tác của anh với công chúng được cải thiện lớn lao trong những năm mới mở xưởng, ai biết anh trong những năm này thấy có thay đổi, và bạn bè nói anh hóa ra 'lịch sự và dễ thương'. Điều lợi khác của việc làm là anh học được từ khách hàng, các chủ xe thuộc đủ mọi giới và họ dạy anh đủ chuyện như ngân hàng, đầu tư, các nguyên tắc chung về thương nghiệp, bất động sản. Đó là sự giáo dục vô giá mà anh không thể nào có được ở bất cứ trường nào.
Sau 15 năm làm việc trong thế giới của máy móc, xưởng của John có tiếng là sửa
được mọi trục trặc của xe. Hễ nơi nào chịu thua không sửa được thì chủ nhân đem xe đến với anh, dù ở xa. Càng ngày anh càng có thể giải những vấn đề hóc búa hơn, như vậy cuối cùng anh tạo được chỗ đứng cho mình và cảm thấy an tâm, vững chãi.
Rồi thình lình có người gọi anh. Chủ tịch ngân hàng mà anh giao dịch muốn mời anh vào ban giám đốc của ngân hàng. John tưởng trương mục của mình có gì không ổn nên lời mời bất ngờ khiến anh kinh ngạc. Anh ? Làm thành viên trong ban giám đốc ngân hàng ? Anh chỉ có thể đáp:
- Tôi rất hân hạnh.
Và anh ý thức rằng mình đã được nhận vào cộng đồng, là người được được chào đón như ai khác, không còn là kẻ bị gạt qua bên.
● Định Bệnh.
Từ lúc sinh ra đến năm 40 tuổi, cha mẹ, thầy cô, người khác thấy John có bộ tịch, hành vi khác đời mà không ai biết đó là tật gì. Mãi tới khi anh mở xưởng sửa xe, có khách hàng quen là chuyên gia làm việc với trẻ khuyết tật, người này kín đáo quan sát những tật của anh và 10 năm sau, khi đã quen thân họ mới mở lời, đưa tài liệu về chứng Asperger cho anh xem. Càng đọc, John càng vỡ lẽ. Anh biết mình không dòm vào mắt người nhưng không hề biết là hành vi của mình có gì khác lạ, cũng như không hiểu tại sao người khác đối xử với anh bất công, xấu bụng. John không hề nghĩ là người khác có thể thấy hành vi của anh kỳ quặc.
Trong 16 năm đầu đời của anh, ba mẹ dẫn đi tới ít nhất một tá người gọi là chuyên gia y khoa để khám. Không ai đoán được là John bị vấn đề gì. Để cho công bằng thì anh nhìn nhận rằng lúc đó chưa ai biết đến hội chứng Asperger, nhưng đã có hiểu biết về chứng tự kỷ, và không hề có ai nói là có thể anh có chứng tự kỷ. Thay vì quan sát kỹ và nhìn John một cách thông cảm, chuyên gia thấy nói là anh lười biếng, chống đối, thì dễ hơn.
Khám phá là có tài liệu viết về tật của mình làm John hết sức lạ lùng, vậy là có người khác giống như anh, có nhiều tới mức họ đặt ra tên gọi cho ai như thế. Càng đọc, trí não anh càng quay mòng mòng. Cả đời mình anh nghe người khác chê trách rằng anh phách lối, dửng dưng, không thân thiện; nay tài liệu nói rằng người AS biểu lộ nét mặt không thích hợp. Chắc chắn rồi, khi còn nhỏ nghe chuyện là bà dì qua đời, anh nhăn răng cười tuy buồn trong bụng, và bị đòn.
Đọc chừng nào John thấy nhẹ người chừng nấy. Từ hồi nào tới giờ anh luôn có cảm tưởng mình là kẻ lạc lõng trong đời, luôn nghĩ mình là giả mạo, hoặc tệ hơn, là có bệnh tâm thần mà xã hội chưa biết ra để bắt giữ. Nay tài liệu nói khác hẳn, anh không lười biếng, anh bình thường theo cách của anh, chỉ có điều anh khác với thông thường. Hóa ra bao nhiêu năm nay, anh sống với những tật mà không ý thức đó là chứng tự kỷ. Giờ tài liệu nói chứng tự kỷ là bệnh theo cấp độ, ở cấp độ nặng thì khác và anh là cấp độ nhẹ thì khác nữa.
Phải chi xưa kia các chuyên gia định bệnh đúng cho anh, cha mẹ biết tại sao anh xử sự lạ lùng và biết cách giúp con, hẳn đời John sẽ diễn tiến rất khác xa. Có những cơ hội đã bỏ lỡ vì anh không hợp được với lề thói chung, chẳng hạn như bỏ học lớp 10 năm 16 tuổi vì trường lớp, thầy cô không chấp nhận anh, cho dù thử nghiệm thấy John có óc thông minh cao hơn đa số ai đã xong đại học. Khả năng của anh khiến giáo sư đại học khuyến khích anh vào học cho dù chưa tốt nghiệp trung học, nhưng John bị ê chề vì thất bại ở trường và đâm sợ, không muốn có thể bị thất bại nữa.
Đọc xong tài liệu, John bắt đầu hiểu sự khác biệt giữa cách anh xử sự và người 'bình thường' xử sự trong những trường hợp khác nhau. Anh khởi sự cố ý nhìn vào mắt người khác, và ngay cả khi nhìn xuống sàn để xếp đặt câu trả lời, anh cũng tập thỉnh thoảng liếc nhìn họ. John học cách ngưng lại khoan trả lời khi có ai đi tới và bắt đầu nói. Anh tập thói quen là trả lời theo cách hơi khác thường, mà không kỳ cục trật chìa hẳn. Khi có ai hỏi:
- Sao, John, mạnh giỏi ? Công chuyện khá hông ?
Anh có thể đáp:
- Làm ăn cũng được, Bob, còn anh thì sao ?
thay nói một hơi như khi xưa:
- Tôi vừa mới đọc về động cơ diesel MTU mà hãng tầu American President Lines cho dùng trong tầu mới nhất chở thùng hàng. Hệ thống điện tử mới để điều khiển động cơ rất là tuyệt.
Chuyện có hơi khó làm nhưng John có tiến bộ, và những thay đổi như thế cho ra khác biệt lớn trong cách nhìn của người khác về anh, từ chỗ mang tiếng là người mát dây khùng điên nay anh được xem là người lập dị, đỡ hơn rất nhiều. Biết về những tật của chứng AS còn giúp anh về những mặt khác, anh thường nghĩ là mình giả mạo (fraud) vì không hành xử giống như ai khác, không học hết trung học, không làm theo qui tắc thông thường. Bởi vậy anh không hề thấy mình hợp với lẽ thường, tuy nhiên khi biết về đặc tính của AS, những cảm tưởng bất an đó nhiều phần biến mất.
Nay anh ý thức rằng tài năng và hiểu biết anh có là chuyện thực, những máy móc, dụng cụ anh sáng tạo hoặc giúp sáng chế là đồ thực, và khả năng hiểu được mạch điện phức tạp cũng là thực trạng. Kinh nghiệm còn giúp anh thấy rằng các tài năng này rất hiếm hoi. Trong đời có biết bao người sống theo lề thói thông thường, John biết những người này sẽ không vui khi xử sự với anh, bởi anh không tuân theo qui tắc. May mắn là cũng có nhiều người quan tâm đến kết quả hơn và những người này thường vui vẻ với anh, vì đặc tính Asperger làm anh thành chuyên gia trong bất cứ lãnh vực nào mà anh chọn. Với hiểu biết đáng kể, John có thể cho ra kết quả tốt đẹp.
Thế thì, anh không có khuyết tật. Thực vậy, trong mấy năm gần đây John bắt đầu thấy là người AS khá hơn người bình thường ! Có một chút tính chất AS là điều tối cần cho thiên tài sáng tạo.
● Hôn Nhân
John chia sẻ những điều anh cho là đã giúp hôn nhân lần thứ hai của anh với Mata thành công hơn lần đầu, và kéo dài hơn 20 năm tính đến lúc viết chuyện.
1. Marta để ý tới anh rất kỹ, cô chú tâm để biết khi nào anh buồn, lo hoặc rầu rĩ. Người ta nói anh không biểu lộ nhiều trên gương mặt, nhưng chẳng hiểu vì sao cô làm cho anh cười được, và với những biểu lộ ít oi của anh, cô có thể đọc ra là John có cảm xúc gì. rồi biết phải làm hay nói ra sao để anh được thoải mái hơn.
Cô cũng luôn luôn quan tâm đến anh, làm như tin tưởng vào anh vô điều kiện. Khi John cho vợ hay là sẽ làm gì thì cô luôn luôn nghĩ là anh sẽ thành công, còn John thì cho rằng việc cô tin tưởng làm gia tăng cơ may thành công của anh. Khi làm được việc, anh về thuật cho vợ hay thì nghe bảo:
- Em luôn luôn biết là anh có thể làm được. Đó là tại sao em chịu thành hôn với anh.
John thì thật tình không biết là làm sao cô có thể 'luôn luôn biết' trước là anh có thể làm
điều anh chưa làm bao giờ ! Nhưng cô nói vậy thì anh nghe vậy.
2. Cô quan sát chuyện người khác quanh anh nói và làm gì, rồi giải thích những điều mà anh không nhận ra. Ngay cả cho tới lúc này, John không nắm được hết các điều tế nhị trong cuộc trò chuyện giữa người 'bình thường', chẳng hạn anh bơ bơ với sự khôi hài và lời mỉa mai. Có nhiều lần người ta nói một câu và đợi anh phá ra cười mà anh cứ đứng thộn mặt, hoặc khi khác ai đó thốt lời châm chọc nhưng John hoàn toàn không biết. Marta nhẹ nhàng phân tích cho anh thấy, John lắng nghe và mỗi năm có chú ý nhiều hơn.
3. Marta kiên nhẫn khi anh hỏi đi hỏi lại một câu. Thí dụ mỗi ngày tới giờ trưa anh gọi về nhà:
- Này, em có thích bồ ruột của em không ?
- Có chứ, em thích anh lắm. Cô trấn an John.
Một giờ sau, chắc hẳn anh đã quên lần gọi vừa rồi vì gọi nữa và nói:
- Chà, em có thích bồ ruột của em không ?
- Có, em vẫn thích anh. Marta đáp.
Trong ngày anh gọi như thế bốn, năm lần. Tới lần thứ năm cô có thể bảo:
- Không, em không còn thích anh chút nào hết.
nhưng tới lúc ấy thì John biết là cô nói đùa. Cô thực sự thích anh và John thấy an tâm. Anh không biết tại sao mình hỏi hoài hủy một câu, nhưng phải làm mà nếu bị ép phải ngưng thì anh hóa ra rất lo lắng.
4. Cô vuốt ve anh (như vuốt chó !)
Kinh nghiệm vuốt ve Chuckie hồi còn nhỏ đã nói ở trên làm anh không còn muốn vuốt ve ai khác sau này, may sao Marta không có kinh nghiệm như thế và John rất hân hoan được vuốt ve. Từ lâu John có tật là luôn luôn nhịp chân, lắc lư hoặc có hành vi lạ lùng nào khác. Bây giờ thì người ta hiểu đó là tật của chứng AS, nhưng lúc John còn nhỏ thì không ai biết và cho rằng đó là điều kỳ quặc, tự nhiên là John cũng tin theo.
Một hôm không biết tại sao cô vuốt nhẹ cánh tay của anh và John lập tức ngưng không lắc lư, ngọ nguậy nữa. Kết quả thật bất ngờ nên cô làm tiếp và John chẳng bao lâu nhận ra rằng vuốt ve làm anh dịu lại. Anh thích được vuốt ve và gãi nhẹ. Một tật khác của chứng tự kỷ là thích có áp lực sâu, khi nhỏ tật biểu hiện bằng việc John thích chui vào trong hốc, trong kẹt và cuốn tròn người lại nằm ép trong đó, hoặc khi ngủ thì chồng gối lên người mới ngủ ngon. Nói khác đi là anh cảm thấy thoải mái khi có vật đè lên người, tạo áp lực. Lập gia đình rồi thì tật này lộ ra cách khác là ngủ một mình thì trăn trở không yên mà thích ngủ có tay hay chân của Marta gác lên người anh, hoặc nếu không thì phải nằm đâu lưng vào nhau, có đè, có ép cách này hay cách kia, nếu không thì John than phiền:
- Em gác lên người anh đi.
Anh luôn luôn cảm thấy bình thản hơn và thoải mái hơn khi được gác lên người, hoặc được gãi và ngủ rất dễ, ít khi có mộng mị xấu. Nếu nửa đêm thức giấc và được Marta gác lên người thì anh ngủ lại ngay, đôi khi hai người lăn ra xa nhau thì John dịch vào để lưng đâu nhau trở lại và anh hài lòng ngủ tiếp. John không biết tại sao như thế, mà chỉ biết rằng cách đó khiến anh ngủ ngon.
Chứng Asperger luôn luôn có trong xã hội, nhưng chỉ mới khám phá lúc gần đây. Tật này không phải xấu hết mọi mặt, vài người Asperger có khả năng sáng chói trong một bộ môn riêng biệt nào đó như nhạc, toán, nhưng đa số trẻ AS không phải lúc nào cũng đạt được thành quả khi lớn lên, mà cuộc trưởng thành là chặng đường cô đơn và đau khổ. AS không phải là một bệnh, nó là một đặc tính, không có cách nào chữa hết bệnh này mà cũng không cần có thuốc. Tuy nhiên trẻ AS, gia đình và thân hữu cần có hiểu biết và thích nghi.
Phải mất một thời gian dài John mới tới được ngày nay, học được rằng mình là ai. Những ngày chui trong hốc trong kẹt nay đã qua, giờ anh hãnh diện rằng mình có chứng AS.

.........       KẾT      .........
Trong phần chót này ta nhắc lại những điểm chính yếu để giúp thiếu niên qua được giai đoạn tuổi dậy thì một cách tốt đẹp:
1. Dạy Kết Bạn.
Các nhà giáo dục nay ý thức là cần chuẩn bị thiếu niên cho việc ra đời, do có nhiều hiểu biết hơn về tật của người tự kỷ. Vì vậy bắt đầu có chú trọng vào chương trình huấn luyện những kỹ năng mà em cần để hội nhập thành công, trong đó có kỹ năng tìm bạn, bởi không ai bắt buộc phải đơn độc trong suốt cuộc đời. Tiêu biểu cho khuynh hướng này là trường đại học UCLA (University of California at Los Angeles) có lớp đặc biệt để giúp thiếu niên tự kỷ học cách tương tác đặc biệt với bạn đồng tuổi. Chương trình kéo dài 12 tuần, sau khóa học, so sánh với nhóm thiếu niên không theo học thì nhóm có trị liệu có cải thiện đáng kể về kỹ năng giao tiếp và tương tác với bạn.
Bình thường, thiếu niên học những luật căn bản nhờ quan sát hành vi của bạn, cộng thêm chỉ dẫn rõ ràng của cha mẹ; còn trẻ tự kỷ phải cần có chỉ dẫn thêm. Việc không hiểu được ý nghĩa lời nói như thân thiện, thù nghịch, mỉa mai làm em có thể bị nhóm gạt bỏ, cô lập hoặc bắt nạt. Lớp học dạy thiếu niên tự kỷ nhằm giảm bớt các rủi ro này, cùng dạy một số kỹ năng đặc biệt về giao tiếp.
Cha mẹ cũng được yêu cầu dự buổi học cùng lúc với con nhưng riêng rẽ, trong đó họ được cung cấp những chỉ dẫn trực tiếp để hỗ trợ sự phát triển của con. Chương trình cho rằng sự can dự của cha mẹ là điều bắt buộc và quan trọng, nó có thể cho ảnh hưởng tích cực đáng kể cho tình bạn của con, vừa về mặt chỉ dẫn và trông coi, cũng như hỗ trợ con phát triển vòng thân hữu của em.
Đi vào chi tiết thì lớp chú trọng vào việc dạy những luật giao tiếp cho thiếu niên, còn cha mẹ được cho thông tin về cách trông coi việc thực hành những kỹ năng mới học này. Chúng gồm:
- Tới nhập vào một nhóm và góp chuyện, rồi ra nhóm.
- Đối đáp khi bị chọc ghẹo vui vẻ, bắt nạt, hoặc có tranh cãi.
- Chọn nhóm hợp với mình, như nhóm mọt sách, nhóm vui nhộn, nhóm trò chơi.
- Học cách chơi thể thao giỏi.
- Học cách làm chủ nhà tiếp khách khéo léo trong những dịp họp mặt.
- Thay đổi ấn tượng xấu như ngố, mát dây bằng cách thay đổi bộ dạng, nhìn nhận tật của mình.
Mỗi buổi gồm có bài chỉ dẫn, thực tập đổi vai trong đó hướng dẫn viên làm gương những kỹ năng giao tiếp thích hợp, dượt về hành vi cho thiếu niên tập những kỹ năng mới học, hướng dẫn hành vi với phê bình về cách em xử sự, và có 'bài làm' mỗi tuần mà cha mẹ trông coi, như mời bạn đến nhà chơi. Dựa vào các đặc tính của tự kỷ, lớp học rất qui củ, và kỹ năng được chia thành từng bước nhỏ, cho thiếu niên có hành động riêng biệt để đáp ứng với một cảnh giao tiếp. Phương pháp chỉ dạy này rất thu hút với thiếu niên tự kỷ vì em có khuynh hướng hiểu cụ thể và thường học thuộc lòng. Lấy thí
dụ nếu em bị chọc ghẹo thì được dạy câu trả lời ngắn gọn như 'Sao cũng được, Whatever', 'Thì đã sao ? So what ?', em được dạy không bị mắc mưu với cách ăn nói hai nghĩa hay gặp.
Kết quả tỏ ra khích lệ với những quan sát thấy thiếu niên:
- Có tương tác nhiều hơn với bạn ngoài giờ học.
- Cha mẹ cho hay có cải thiện đáng kể về kỹ năng giao tiếp nói chung.
- Có hiểu biết khả quan hơn về những luật khi giao tiếp, kết bạn và giữ tình bạn.
- Mời bạn tới nhà chơi thường hơn.
- Tình bạn tốt đẹp hơn.
So sánh thì trong tuần đầu tiên, khi đến lớp các em nhìn xuống, câu đáp ậm ừ, lúng búng trong miệng, gần như không nhìn vào mắt. Tới tuần 12, cũng chính những em này nói lao xao, có đáp ứng và chịu trao đổi trò chuyện. Những điều trên đều đáng kể, tuy nhiên kết quả quan trọng nhất theo các nhà nghiên cứu là phát triển kỹ năng cho ảnh hưởng trực tiếp vào phẩm chất của đời sống thiếu niên. Giúp các em phát triển tình thân có ý nghĩa, cảm thấy thoải mái hơn trong môi trường xã hội của em, đây là những yếu tố căn bản để sống đời hạnh phúc.
Bạn có thể vào trang web sau để tìm hiểu thêm về chương trình này:
www.semel.ucla.edu./socialskills
2. Có Sở Thích Riêng.
Khuyến khích con có sở thích đặc biệt, chẳng những em có vui thú mà nó còn có thể dẫn đến tình bạn với bạn cùng lứa có chung sở thích, hoặc bạn lớn tuổi / nhỏ tuổi hơn, thí dụ khi em gia nhập một nhóm hay hội quán về sở thích này. Em cũng có thể dự trại chuyên về một sinh hoạt, như trại âm nhạc, vừa cho em cơ hội kết bạn, mà cũng tập cách giao tiếp. Sở thích riêng cho ứng dụng rất hữu ích là khiến ngày giờ của em có ý nghĩa; người tự kỷ ít có bạn, mà tuổi thọ tương đương như người bình thường nên họ cần có sinh hoạt tạo phẩm chất cho cuộc sống, và miệt mài với sở thích là một cách sống sáng tạo, vui vẻ.
Nhiều trường hợp người tự kỷ có khiếu về âm nhạc, hội họa. Cha mẹ có thể đọc hai quyển sau để lấy ý về hai bộ môn này:
- Exiting Nirvana, Clara Clairborne Park, 2000.
- Unstrange Minds, Roy Richard Grinker, 2008.
Chơi nhạc còn là cách tuyệt hảo để giao tiếp, kết bạn. Khi ở trong ban nhạc, em bắt buộc phải hợp tác, hòa với bạn chung quanh, làm theo chỉ dẫn, nhìn vào mắt, quen với âm thanh lạ tức được trị liệu về nhiều mặt.
3. Ngành Chuyên Môn
Sở thích riêng có thể là một ngành chuyên môn thí dụ về điện, điện tử, điện toán, khảo cổ v.v. Về điểm này, người tự kỷ đã thành công trong việc làm nói rằng nhấn mạnh bao nhiều cũng không đủ về sự quan trọng là cha mẹ cần tập cho con có một ngành chuyên môn, để gia tăng cơ may tìm việc.
4. Kỹ Năng Sinh Sống
Như đã nói, chủ trương của nhóm TươngTrợ là dạy để phát triển con mà không nhắm vào việc tìm chữa trị dứt hẳn bệnh, vì điều này được thấy là hiếm hoi. Chủ trương
này tỏ ra xác đáng khi ta xem xét hệ thống giáo dục và dịch vụ trợ giúp cho người lớn tự kỷ, thí dụ sau đây là của Úc nhưng có thể nói là cũng đúng cho những nước tiến bộ như Hoa Kỳ, Anh v.v. Đó là khi thiếu niên rời trường và được vào học ở trung tâm sau trung học, mỗi học viên được trợ cấp ấn định của chính phủ thường là như nhau. Tuy nhiên có học viên được học 3 ngày một tuần, hai ngày kia phải ở nhà, và học viên khác đồng tuổi hoặc khác tuổi lại được học năm ngày một tuần. Hiển nhiên là người được học nhiều giờ hơn sẽ có cơ hội phát triển thêm, mà nếu được gia đình tiếp tay với trường thì cơ may tăng trưởng càng tốt đẹp hơn nữa. Người phải ở nhà hai ngày mà cha mẹ không chú ý để tạo dịp cho con học hỏi, thường không có làm gì khác hơn là xem truyền hình, mức phát triển bị chậm lại, cơ hội học để sống đời độc lập bị giảm bớt đi.
Câu hỏi đặt ra là tại sao hai người không được cho cơ hội đồng đều ? Cha mẹ nêu thắc mắc với trung tâm thì được giải thích là với số tiền tài trợ ngang nhau cho mỗi học viên, học viên nào phát triển nhiều không cần học kỹ năng tự lo thân thì tiền tài trợ được dành cho họ học việc khác. Đối với ai không có nhiều kỹ năng và cần dịch vụ để giúp họ phát triển, phần lớn tiền tài trợ được dành cho việc mướn chuyên viên về mặt này, kết quả là không còn tiền để lo mặt khác nên học viên chỉ được học ít giờ trong tuần. Ai đã dạy con thành công sẽ cho bạn hay rằng cha mẹ có thể dạy kỹ năng cho con, chỉ cần kiên nhẫn và nỗ lực của bạn sẽ mang lại thành quả đáng kể, và quan trọng hơn nữa là con khuyết tật nói chung có thể học và phát triển khi được dạy. Như thế dạy con ở nhà có kỹ năng là điều lợi, vào trường em không cần phải học chúng và tài trợ được sử dụng để giúp em học chuyện khác, làm em tăng trưởng nhiều hơn.
Sự việc cho thấy là công khó của cha mẹ dạy con từ thuở còn thơ không hề uổng phí, mà cho lợi ích đáng kể về lâu về dài.Tuổi thiếu niên với nhiều thay đổi có thể làm cha mẹ lo âu nhiều hơn, tuy nhiên khi nhìn xa về tương lai, đây là giai đoạn quan trọng đặt căn bản cho cuộc đời sau này của con bạn, đáng cho bạn bỏ công sức huấn luyện con. Sách này đưa ra các ý niệm chính, ngoài ra bạn nên tìm thêm thông tin trong tài liệu khác, các trang web của những tổ chức hay cơ quan chuyên môn có uy tín như hội tự kỷ các nước, nói chuyện với cha mẹ khác, đi dự các buổi họp thông tin, đọc sách báo.
5. Tình Cảm
Nay ta biết những tật của chứng tự kỷ và AS không phải do tình cảm mà ra, nhưng tình cảm có thể cho ảnh hưởng lâu dài với các tật này. Người ta quan sát thấy là những khác nhau của người tự kỷ, nhất là về mặt giao tiếp và thích nghi có thể được giải thích là do khác biệt trong cách dạy của gia đình, gồm cách thức mà cha mẹ dùng để đối phó với tật, và khác biệt về môi trường tình cảm của mỗi gia đình. Trong những rủi ro mà người tự kỷ dễ gặp có bệnh trầm cảm, cần được nhận biết sớm.
Tuy hiện trạng về chứng tự kỷ chưa được tốt đẹp như ý, thực ra chúng ta đang sống trong thời điểm hào hứng và nhiều hứa hẹn, với các cơ hội có sẵn để biến mơ ước của thiếu niên thành sự thực. Muốn cho việc ấy diễn ra thì cha mẹ và cộng đồng cần làm việc chung, tạo thêm cơ hội cho con về việc làm và cách sinh sống cho người tự kỷ, cũng như chuẩn bị cho thiếu niên ở trường. Sự việc muốn nói ta phải tự mình sinh ra những thay đổi mà ta muốn có.
Một điểm chung cho ai thành công là cha mẹ không bỏ cuộc trong việc giúp con, họ quyết tâm, nhất định không tin rằng chuyện vô vọng, rằng con có thể dạy được, hấp thu và phát triển. Điểm khác là sự hiểu biết, cha mẹ nói rằng họ xông xáo tìm tòi những gì viết về chứng tự kỷ, về phương pháp dạy, các trị liệu khác nhau và căn bản khoa học của chúng, chương trình can thiệp về sinh học hoặc về y khoa. Họ áp dụng điểm nào thấy có lý và thích hợp cho trường hợp riêng của con mình.
Cho riêng cha mẹ thì tìm hiểu về liên hệ giữa sự an vui của cha mẹ và cách đối phó với chứng tự kỷ cho ra những nhận xét:
○ Khi cha mẹ tích cực tìm cách tránh né không đối đầu với bệnh, tức có việc phủ nhận tình trạng của con, thì ta thấy là thái độ này liên kết với căng thẳng, lo âu và triệu chứng trầm cảm nhiều hơn.
○ Khi tích cực đối đầu thì cha mẹ cho hay là có mức trầm cảm thấp hơn, không thấy có liên kết với căng thẳng và sức khỏe tâm thần.
○ Việc gia đình khó thể mang con ra ngoài chơi do tật của trẻ có thể làm tăng thêm căng thẳng cho gia đình, gây ra xung đột trong nhà. Nếu gia đình không thể có sinh hoạt chung cho trẻ tự kỷ và anh chị em thì có rủi ro là gia đình không liên kết mọi người với nhau, hoặc không thể đáp ứng với nhu cầu của mọi người trong nhà.
Cha mẹ đối đầu bằng những cách sau:
○ Tăng lòng tự tin, như tìm cách phát triển chính mình, có tính độc lập và tự lo nhiều hơn
○ Có tinh thần lạc quan, tin rằng 'Chuyện sẽ giải quyết tốt đẹp', 'Đầu tư vào con cái' thay vì coi việc lo cho con là tốn phí.
○ Hỗ trợ vợ/chồng, như bầy tỏ cảm xúc và nói về sự lo lắng của mình cho chồng / vợ nghe, đi chơi đều đặn với chồng / vợ.
Cha mẹ thường hỏi 'Khi con tôi trưởng thành thì chuyện ra sao', và 'Tật sẽ diễn biến thế nào ?' Sự thật là chúng ta chưa biết, ta chưa có đủ giờ để theo dõi một số lớn thiếu niên tự kỷ qua những giai đoạn phát triển thành người trưởng thành. Điều chúng ta biết là một số người có thêm ý thức xã hội và kỹ năng khi lớn dần, họ học được càng lúc càng nhiều những luật trong cuộc sống, có được việc làm. Một số người khác không may mắn bằng, không có việc làm hoặc bị cô đơn, có rủi ro mắc chứng lo lắng hay trầm cảm.
Ta không biết ai sẽ thuộc về nhóm nào, nhưng chứng cớ nói là ai có sở thích, ngành chuyên môn, có điều gì mà họ ưa chuộng, khiến họ tiếp tục học để tăng trưởng; ai giữ cho mình tích cực và mạnh khỏe, có tình thân với ít nhất một người khác đều sống vui. Cha mẹ có thể giúp con rất nhiều bằng cách dạy con có kỹ năng, nếu em có đủ tri thức cho việc ấy; bởi điều mà ai thành công luôn nhấn mạnh, là người tự kỷ cần tạo cho mình một kỹ năng chuyên biệt để tìm được việc làm.
Do việc cha mẹ ở cạnh con luôn, biết tính khí và khả năng của con, nên cha mẹ là chuyên gia đúng nghĩa về con của mình, biết điều gì con nên tập và điều gì nên bỏ. Có rất nhiều điều có thể làm cho con khi bạn chịu khó quan sát mà không tốn phí chút nào. Một phụ huynh tại Vũng Tàu nhận xét là con thích viết, vẽ, mà cũng có tật tự hại thân là
cắn, đập đầu vào tường. Anh lý luận một cách giản dị là ông bà mình nói 'Xay lúa thì khỏi bồng em', hễ bận làm chuyện này thì không làm chuyện kia, thế nên anh mua viết, mua giấy cho con bận rộn viết, vẽ, không còn nhớ để có hành vi tự hại thân. Nó muốn nói có những cách đối phó hữu hiệu, giản dị, không đắt tiền để dạy con tự kỷ. Điều cần làm là tin tưởng con có thể phát triển, học được và chịu dành thì giờ để dạy kỹ năng cho con.
Việc báo động về chứng tự kỷ trong những năm cuối thế kỷ trước cho ra một lợi ích to lớn, là có chú trọng vào việc dạy trẻ nhỏ tự kỷ. Hỗ trợ ấy thành công đến mức ngày nay, khi các em nhỏ của bước vào tuổi thiếu niên, người ta khám phá một điều là có quá ít chú tâm để giúp thiếu niên tự kỷ, lại càng có ít phương tiện cho người tự kỷ trưởng thành, thế nên bắt đầu có nỗ lực chữa lại thiếu sót ấy. Trong những năm tới đây có nhiều nghiên cứu sẽ được thực hiện, tài liệu, ý kiến được trưng ra cho cha mẹ, và bạn cần cập nhật hiểu biết của mình để lo cho con tốt đẹp hơn. Chuyện tương lai của chứng tự kỷ hứa hẹn có nhiều điều thích thú, có lợi cho thiếu niên và người tự kỷ trưởng thành; cha mẹ có lý do để lạc quan rằng khi bạn giúp con nhờ có hiểu biết mới, đời sống mai sau của con sẽ khá hơn những thế hệ vừa qua.