Chương Ba: Giao Tiếp


Tổng Quát
I. DẠY ĐIỀU CHI
Liên Lạc Tỏ ý
Cách Giao Tiếp
Giúp Phát Triển Kỹ Năng Trò Chuyện
Dạy Khi Nào
II. NHỮNG YẾU TỐ KHÁC
III. TÌNH BẠN
Kết Bạn
Tạo Cơ Hội
Duy Trì Tình Bạn

Tổng Quát
Chúng ta dùng nhiều loại kỹ năng giao tiếp mỗi lần tương tác với ai, còn khi trẻ tự kỷ hay thiếu niên chơi một mình thì không bị đòi hỏi phải có kỹ năng giao tiếp, và đó là lý do nhiều người tự kỷ thích chơi riêng rẽ; chuyện không phức tạp khi chơi một mình và em không phạm lỗi lầm vì không cần theo luật chơi của người khác. Kỹ năng giao tiếp nói về những loại sau:
– Kỹ năng trò chuyện: chào hỏi, dự vào cuộc đối thoại, thay phiên nhau nói, lắng nghe, nói về một đề tài riêng biệt, ý thức khoảng cách cá nhân, biết mở đầu và chấm dứt câu chuyện.
– Kỹ năng chơi: biết quan sát cuộc chơi, nhập cuộc, thay phiên chơi, chia sẻ, nhân nhượng, giải quyết tranh chấp, biết cách xử sự khi bị từ chối, bị thua; chơi tương tác, biết chấm dứt cuộc chơi v.v.
– Hiểu các cảm xúc: biết nhìn nét mặt, điệu bộ thân hình, giọng nói và suy ra cảm xúc của người khác; có chữ để diễn tả nhiều cảm xúc khác nhau; biết đối phó với sự tức giận; biết tự chỉnh để giảm bớt sự lo lắng, căng thẳng.
– Kết bạn: biết tạo và duy trì tình bạn, đối phó được với áp lực của bạn đồng tuổi.
Nói chung những kỹ năng trên phát triển sớm nơi trẻ bình thường và diễn ra theo năm tháng khi trẻ lớn dần, nhiều khi không có chỉ dẫn. Trẻ thăm dò môi trường chung
quanh, làm thử khi đúng khi sai để giải quyết vấn đề; chúng quan sát những trẻ khác, bắt chước bạn và tìm cách dự vào trò chơi. Nếu làm trật thì lấy kinh nghiệm và rồi chơi tiếp, nhờ đó kỹ năng được trau luyện dần khi em lớn và cùng lúc em đi theo khuynh hướng của xã hội. Tuy nhiên thiếu niên tự kỷ xem ra không phát triển kỹ năng giao tiếp theo cùng cách thức như trẻ bình thường, vì vậy bạn cần giải thích khung cảnh giao tiếp cho con rõ, dùng chữ và ý niệm hợp với trình độ phát triển của con.
Có thể chia trẻ tự kỷ thành bốn loại chính, mỗi loại có những khó khăn riêng về mặt giao tiếp:
– Trẻ dửng dưng, làm như em xa lánh và thờ ơ với người khác; khi bực tức thì khó mà làm cho nguôi.
– Trẻ thụ động, không tự ý khơi chuyện với ai nhưng chịu tương tác khi người khác mở đầu.
– Trẻ tích cực mà khác đời, tự ý bắt chuyện với trẻ khác nhưng theo cách lạ lùng, không thích hợp. Em cũng không chú ý mấy đến câu trả lời của những ai mà em tới khơi chuyện.
– Thiếu niên trịnh trọng đúng bài bản, ăn nói cứng ngắc, hết sức lịch sự, dùng ngôn ngữ đúng phép tắc, có thể theo sát luật trong khi tương tác mà không biết linh động.
Có thể là trẻ phát triển qua những loại này, em nào dửng dưng có thể học được kỹ năng tương tác khi lớn, nhưng vẫn còn tính thờ ơ và khác đời một chút khi so với chúng bạn cùng tuổi. Nhiều yếu tố hợp lại khiến người tự kỷ không bắt được các dấu hiệu không lời, bỏ qua cơ hội thực tập các kỹ năng này, thí dụ như tật không nhìn vào mắt, không hiểu nghĩa bóng. Để giúp con thì cha mẹ cần giải thích những kỹ năng, tình cảnh và thực tập với con, để em có thể lãnh hội theo mức của mình, hiểu được ý nghĩa của chúng.
Dù có trí thông minh bình thường, người tự kỷ vẫn có thể không hiểu được việc giao dịch, tương tác, thấy hoang mang rối rắm. Họ nói:
- Nó làm như ai nấy chơi một trò phức tạp và tôi là người duy nhất không được cho biết về luật chơi.
Lời giải thích của cha mẹ sẽ làm thiếu niên tự tin hơn khi tiếp xúc ngoài xã hội. Cho dù trẻ không muốn giao tiếp với ai và thích ở một mình, tập có kỹ năng tương tác là điều hữu ích vì nó sẽ giúp em biết xử sự đúng cách ở nơi đông người và không tránh được, như trong các buổi hội họp cuối năm ở trường hoặc họp mặt gia đình.
I. DẠY ĐIỀU CHI.
Điều quan trọng là ta bắt đầu ở mức hiện thời của con, thay vì ở mức mà ta muốn con có hoặc ở mức của bạn bè cùng tuổi; bởi dạy trẻ cách đối phó với sự giận dữ không có lợi gì nếu con không hiểu ý nghĩa của những biểu lộ khác nhau trên mặt; cũng như không thể dạy điều ấy nếu trẻ khó mà ngồi yên, chịu nhìn vào mặt người khác và chú ý. Cha mẹ thường hiểu rõ con mình hơn ai hết, tuy nhiên bạn cũng nên nói chuyện với nhà trường hay chuyên viên nào làm việc với con, để xem có vấn đề gì về việc giao tiếp ở trường hay bất cứ vấn đề nào đáng quan tâm. Ta cần nhớ là trẻ có thể có những khó
khăn hay tật chỉ lộ ra ở trường mà không có ở nhà và ngược lại, vì đây là hai môi trường khác nhau cho ra hai tâm lý và hành vi khác nhau.
Một trong những khó khăn lớn nhất cho trẻ tự kỷ là không biết tổng quát hóa. Trẻ bình thường có thể học một kỹ năng ở nhà rồi biết áp dụng nó trong những khung cảnh khác nhau, thí dụ như cột dây giầy; trẻ tự kỷ thì phải được dạy lại kỹ năng đó trong khung cảnh mới và với những người mới. Em không có óc tưởng tượng để đặt mình vào tình trạng khác, cũng như không có sự uyển chuyển để lập lại hành vi ở nơi xa lạ, không liên kết được việc cột dây giầy ở trường và cột ở nhà. Do đó cha mẹ cần vạch cho con thấy sự tương tự của hai trường hợp, đây là điều rất quan trọng ta cần nhớ khi dạy về kỹ năng giao tiếp.
Khi dạy con, hãy tìm cách kết nối kỹ năng với khung cảnh có thật, thấy được; nhắc tới thí dụ mà con biết, dùng tên của người mà con biết, cho con tập kỹ năng đang học trong càng nhiều môi trường càng tốt và với nhiều người khác nhau. Ta dạy điều đúng cũng như cho biết điều gì không đúng, bởi người tự kỷ có ý niệm thiếu sót về cuộc sống và cách giao thiệp nên khi bạn dạy cách nói chuyện trong trường hợp nào, thì cũng cần dạy khi nào không nên dùng cách đó.
1. Liên Lạc Tỏ ý.
Chúng ta liên lạc tỏ ý với nhau luôn luôn, bằng cách này hay cách kia và với một hay nhiều giác quan, thí dụ bằng lời tức dùng thính giác, bằng nét mặt và bộ dạng thân hình tức thị giác, bằng cách sờ chạm tức dùng xúc giác như khi ta chạm nhẹ tay ai. Sự liên lạc ngoài việc để tỏ ý nó còn có thể là để tỏ ẩn ý, tức những điều nằm trong câu nói. Người bình thường dùng chữ, văn phạm và cử chỉ không lời để bầy tỏ ý mình, ước muốn và cảm xúc. Tuy nhiên người tự kỷ không hiểu cũng như không sử dụng những thực dụng này và do đó gặp khó khăn trong khi liên lạc tỏ ý. Ngoài ra các thiếu niên khác có ngôn ngữ riêng của các em đầy ẩn ý, hiểu ngầm, chữ tắt, người bình thường có thể đoán ra phần nào nhưng với thiếu niên tự kỷ em không thể nhận ra và nắm được hết các ý nghĩa ấy trong cuộc chuyện trò hằng ngày.
Em cũng gặp trở ngại với văn viết. Chuyện không hiểu bài có thể không lộ rõ ở bậc tiểu học, vì sách ở trình độ này có tính cụ thể và câu hỏi đặt trên dữ kiện, hơn là phân tích và suy nghĩ trừu tượng. Lên trung học, khi xem sách học sinh bị đòi hỏi tìm hiểu tâm lý nhân vật, hiểu chuyện gì xẩy ra cho nhân vật trong chuyện. Tuy nhiên một trong những khiếm khuyết của chứng tự kỷ là khó mà hiểu được ý người, và khiếm khuyết lộ rõ thêm trong những năm của tuổi thiếu niên.
Điểm chung hay thấy là em không thể đoán người khác nghĩ gì, có ước đoán sai lầm về người khác biết hoặc không biết điều chi. Khi nói về đề tài ưa thích thì trẻ thao thao bất tuyệt, nhưng khi gặp đề tài mà người khác đưa ra thì thiếu niên bị lúng túng, không biết cách đối đáp, vì điều này đòi hỏi em phải thay đổi sự chú ý và hành vi của mình, cũng như không hiểu được ý người đối diện. Ở đây ta phân biệt có hai ý niệm:
– Không muốn làm.
Thiếu niên bình thường có thể chuyện trò huyên thuyên không dứt với bạn đồng lứa, nhưng khi nói chuyện với thầy cô, cha mẹ thì em trả lời nhát gừng, vì em không muốn làm.
– Không thể làm.
Thiếu niên tự kỷ không thể nói chuyện một cách trôi chẩy vì em không có khả năng làm vậy, ngay cả khi em rất muốn làm.
Trẻ không biết nhịp điệu của câu chuyện, không biết khi nào có thể xen vào tỏ ý hoặc lái câu chuyện sang hướng khác. Có than phiền là em hay ngắt lời, sự thực là em không biết khi nào người đối diện nói hết hay chưa; khi thấy họ dừng câu và có sự yên lặng thì thiếu niên cho rằng mình có thể mở lời, tật này thấy rõ nhất khi có chuyện trò tay ba hay nhiều người hơn. Nhịp điệu của cuộc nói chuyện và sự phức tạp vì có nhiều người tham dự làm cảm quan của em bị kích thích quá độ, dẫn tới nhiều sai sót trong lúc trò chuyện.
Những sai sót vừa nói xẩy ra không phải vì thiếu niên tự kỷ thiếu lễ độ, cố ý làm phật lòng người khác (nói với người lớn bằng ngôn ngữ dùng cho bạn cùng trang lứa với em), hoặc vì em không hiểu biết, mà có nhiều nguyên do như em không biết tự điều chỉnh phản ứng của mình (thí dụ sửa lại giọng nói và âm lượng cho hợp), không có điệu bộ dễ coi, không ý thức rõ ảnh hưởng của hành vi em đối với người khác, không hiểu thấu đáo tình trạng chung quanh có nghĩa gì và chót hết là người ta có mong đợi gì đối với em.
Để giúp thì có hai chuyện phải làm là thay đổi cách chúng ta nói với thiếu niên, và chỉ dẫn em cách xử sự.
2. Cách Giao Tiếp.
● Lời Nói, Cách Nói
○ Hãy thuần nhất trong lời nói và dấu hiệu không lời mà bạn trưng ra, và đừng bầy tỏ quá nhiều cảm xúc vì bạn có thể làm con ngợp. Nếu có gì không vừa ý, chờ lúc con và bạn dịu xuống rồi hãy hỏi kỹ về chuyện.
○ Đừng nói quá nhiều và quá mau, ngưng sau mỗi ý hay chỉ dẫn, cho thiếu niên có giờ xếp đặt ý tưởng mà bạn đưa ra, sau đó hãy đi tới ý tiếp theo. Cũng y vậy, khi đặt câu hỏi thì cũng dành thì giờ để em nắm vững ý, nếu cần thì nhắc lại, đề nghị đưa ra là bạn đếm tới 15 rồi hãy nói tiếp.
○ Tránh dùng chữ trừu tượng, nghĩa bóng, mỉa mai mà hãy đề cập thẳng điều gì bạn muốn nói. Người tự kỷ không thay đổi hành vi khi thầy cô nói:
- Chà, Sarah là nhà thông thái cái gì cũng biết.
Thay vào đó thầy cô nên nói:
- Sarah, em đã trả lời nhiều rồi, câu này để cho bạn khác.
○ Nói rõ ý bạn muốn gì, muốn thiếu niên làm chuyện gì. Thí dụ không nên nói
- Dọn phòng cho gọn gàng, sạch sẽ.
mà nói rõ ràng công việc cần làm
- Con cất sách lên kệ, bỏ quần áo dơ vào rổ.
Một khi người tự kỷ biết mình phải làm gì, thường là họ làm chăm chỉ, tận tâm và đó là tính chất khiến họ thường là nhân viên cần mẫn làm chủ nhân rất hài lòng.
○ Người tự kỷ không phân biệt được cách tế nhị khi giao tiếp do đó bạn phải làm gương. Nếu muốn con đối xử đúng cách với ai thì cha mẹ cũng cần làm vậy trước mặt thiếu niên, có nghĩa cũng tỏ ra lễ độ, cung kính với bà hiệu trưởng cho con bắt chước, dù rằng bà có thể là bạn thân của cha mẹ. Theo cùng cách ấy, tránh nói những chuyện
kín đáo, tế nhị hoặc dùng chữ hai nghĩa trước mặt con. Thiếu niên không tinh tế có thể lập lại y vậy trong khung cảnh không thích hợp hay với người khác, gây ra cảnh khó xử cho bạn. Đừng quên rằng người tự kỷ có tài nhái giọng rất tài tình mà hoàn toàn không ý thức là mình nói gì, cùng ảnh hưởng của những điều mình nói đối với người khác.
○ Vạch ra cho con thấy những ý ngầm, luật bất thành văn mà ai cũng 'biết' trong xã hội mà người tự kỷ không biết. Trẻ bình thường chỉ cần nhìn hoặc nghe người khác nói chuyện là có ý niệm về qui tắc hành xử trong cách giao thiệp, nhưng trẻ tự kỷ thiếu sự nhậy bén đó vì không hiểu được trí người, do đó cha mẹ cần diễn dịch lại tiếng lóng để tránh cho con bị chọc ghẹo hay xấu hổ về sau, khi bạn bè dùng chữ mà em không hiểu.
○ Dạy con chữ có nhiều nghĩa, vạch cho thấy một chữ có nghĩa này trong trường hợp này mà lại có nghĩa khác trong trường hợp khác tùy theo hoàn cảnh. Khi ra phố và trò chuyện với người khác, có thể xếp đặt trước để ra dấu cho con biết đây là một chữ có nhiều nghĩa.
○ Giải thích nghĩa bóng, khuyến khích con dùng những chữ có nghĩa thú vị. Tuy nhiên cũng phải dạy thiếu niên dùng được hay không thể dùng chữ ở đâu và khi nào.
○ Dạy con hỏi xin một cách nhã nhặn để được giúp đỡ. Thiếu niên có thể ngần ngại nhưng khi em không hiểu chuyện gì thì đó là cách duy nhất để được giải thích, làm sáng tỏ vấn đề.
○ Dùng tên con luôn – con cần biết là bạn đang nói chuyện với mình. Nếu cần thì tắt truyền hình hay máy hát, video v.v. để con hoàn toàn chú ý tới bạn.
○ Dùng lời nói giản dị không có những chữ không cần thiết và nói chính xác điều bạn muốn nói, không ám chỉ hoặc có nghĩa bóng, ẩn nghĩa; tức đừng nói 'Nước đến chân mới nhẩy' vì trẻ tự kỷ thường chỉ hiểu theo nghĩa đen.
○ Cho con có giờ cần để hiểu điều bạn nói và xếp đặt thông tin.
○ Bắt con phải nói để có được điều chúng muốn như thực phẩm hay chôi ñieàu gì. Bạn có thể đòi hỏi là câu nói phải có ít nhất 5 chữ, trẻ có thể không có chữ vậy bạn cần dạy chữ cho con.
○ Nói rõ ràng xác định ý của bạn, đặc biệt là về thời điểm bạn sẽ làm chuyện gì đó, thí dụ 'Mình sẽ ra xe đi ngay sau khi ăn sáng xong', hoặc 'Con có thể chơi banh lúc 5 giờ'.
○ Dùng hình để tỏ ý nếu điều ấy giúp con liên lạc tỏ ý dễ dàng hơn.
○ Tỏ ra tích cực và yêu cầu con làm điều chúng nên làm, hơn là căn dặn điều chúng không nên làm.
Một bà mẹ ví von rằng dạy trẻ tự kỷ thì có phần nào giống như huấn luyện chó ! Theo nghĩa ta cho rằng trẻ bình thường biết được nhiều điều còn chó thì không biết gì hết nên ta ra lệnh ngắn gọn 'Ngồi, Chạy, Đi'. Cách này áp dụng được cho trẻ tự kỷ như ta nói 'Matt, nắm tay mẹ ngay !' hoặc 'Ken, đứng lại', trong khi nói câu dài dòng phức tạp, trừu tượng sẽ làm rối trí con và không đạt kết quả.
○ Thiếu niên đang bước vào tuổi dậy thì, do đó điều hết sức quan trọng là dạy trẻ điều gì em tuyệt đối không thể nói hay không thể làm. Mới đầu ta dạy trẻ tôn trọng ý người khác là khi họ nói không thì nó có nghĩa là không, nói ngưng là ngưng. Về sau khi thiếu niên lưu ý tới người khác phái thì mở rộng ý này để sang vấn đề tính dục, và điều này phải dạy cho cả trai lẫn gái.
○ Vạch cho thiếu niên thấy những cách tỏ ý không cần lời, tức biết nhận ra ý nghĩa của nét mặt, điệu bộ, cử chỉ. Hãy đặt ra luật đi kèm với hiểu biết này thí dụ khi người lớn đột ngột ngưng nói thì lặng thinh chờ đợi, khi người lớn 'liếc' nhìn (bạn thường xuyên làm cho con thấy) thì cũng yên lặng lắng nghe. Video và phim, kịch trên truyền
hình là phương tiện hướng dẫn rất hữu ích. Hãy cùng xem với con và tới đoạn cần giải thích thì ngưng lại, nói chuyện rồi coi tiếp; hoặc có thể nhắc lại cảnh tượng con đã thấy trong ngày và phân tích cho con thấy. Bạn cần nhấn mạnh là việc diễn giải này không làm ở nơi đương sự có thể nghe được.
○ Thiếu niên cũng cần biết để không vi phạm khoảng cách cá nhân, ý chính là mỗi người có một khoảng không gian bao quanh mà họ cảm thấy thoải mái khi nói chuyện, thường thường khoảng cách là một sải tay và em không nên vi phạm, cũng như khi cảm thấy bị vi phạm thì phải làm sao. Hãy dạy con vài câu thích hợp để nói trong trường hợp này.
● Giọng Nói.
Hãy dùng các giọng nói khác nhau cho những lúc khác nhau:
○ Nói bình thường khi trò chuyện, chỉ bảo, dạy dỗ.
○ Nói nghiêm nghị, tỏ ra quyền uy khi đòi hỏi con theo luật, đòi hỏi sự vâng lời.
○ Nói ôn hòa, thấp giọng hơn bình thường khi con la hét làm nư, ăn vạ. Hãy tưởng tượng có quả banh thẩy vào tường, tường cứng rắn thì lực thẩy mạnh bao nhiêu banh sẽ dội lại mạnh bấy nhiêu; nhưng nếu banh thẩy vào hồ nước thì lực mạnh hay yếu bao nhiêu banh cũng hoặc sẽ chìm, hoặc sẽ nổi lên mặt mà không văng ngược trở lại, và do đó hóa giải được lực ban đầu.
○ Đặt ra những luật về giọng nói, điệu bộ thân hình và chữ dùng khi nói chuyện với những người khác nhau, vì lẽ giản dị là thiếu niên tự kỷ không biết điều chỉnh những việc trên cho hợp với hoàn cảnh. Em có thể không ý thức là phải đứng thẳng người, nói năng lễ độ, không dùng tiếng lóng khi nói chuyện với ông bà nội, thầy cô, chủ nhân. Luật giản dị như 'Tránh nói tục, tiếng lóng, đứng ngay lưng với người lớn' là đủ và hữu ích.
Cha mẹ cũng cần dạy về giọng nói lớn, nhỏ, và cách nhấn âm; hãy tập nhiều lần để con biết cách làm chủ giọng nói và điệu bộ.
● Vòng Giao Tiếp
Đây là cách dạy cho con hiểu rõ thế nào là chuyện riêng tư và tế nhị, vì nhiều thiếu niên không ý thức là có những điều chỉ nói trong gia đình mà không thể trưng ra ở nơi công cộng cho mọi người biết.
Thầy cô hay dùng ý niệm các vòng đồng tâm để dạy chuyện này, vòng trong cùng là gia đình gồm người thân cận nhất thì có thể nói chuyện như 'Lương của ba là ...', 'Bà ngoại phải vào bệnh viện tâm thần', 'Mẹ nghĩ về người đồng tính luyến ái như vầy ...', 'Chú Ba đang đi tìm việc mới.' Ra tới những vòng xa hơn tức nơi công cộng, thiếu niên được dạy kỹ năng trò chuyện tế nhị hơn. Có thể em không hiểu rõ tại sao phải làm vậy nhưng khi cha mẹ đặt ra qui tắc rõ ràng thì trẻ làm theo luật do tính tự kỷ. Chẳng những vậy, em còn vui thích thêm vào hình những hoàn cảnh mới. Xin đọc thêm về vòng trong chương Tính Dục.
○ Ý niệm vòng cũng áp dụng được cho giới hạn của việc tiếp xúc cơ thể như hôn, sờ chạm thân hình.
Một bà mẹ dùng mầu sắc cho các vòng, thí dụ vòng trong cùng mầu vàng gồm gia đình và thân nhân hàm ý có thể ôm và hôn, vòng kế đó có mầu xanh là người quen biết
thì chỉ được phép bắt tay, và vòng ngoài hết có mầu đỏ gồm người lạ thì hoàn toàn không có đụng chạm. Khi ở trong khung cảnh lạ hoặc trường hợp mới, bà mẹ kín đáo cho con thấy mầu để biết cách xử sự đúng đắn. Không phải chỉ có con gái mới cần biết để phòng thân, mà ý niệm thân thuộc và không thân thuộc cũng cần được dạy cho con trai.
Luật cũng áp dụng ngược lại, thiếu niên cần hiểu là em không thể sờ, chạm vào bất cứ ai. Điều này cần nhấn mạnh và đòi hỏi phải tuân theo sát, bởi do tật của chứng tự kỷ, có trẻ học về thế giới bên ngoài bằng xúc giác nhiều hơn, trẻ khác dùng khứu giác, và hành vi dễ gây hiểu lầm và gây khó khăn cho em. Thiếu niên có thể lại gần người lạ để vuốt má (xúc giác) hoặc để ngửi tóc (khứu giác), là những hành động phạm luật, do đó cha mẹ phải đặt ra qui tắc cho con.
3. Giúp Phát Triển Kỹ Năng Trò Chuyện.
Trẻ tự kỷ thấy kỹ năng trò chuyện là việc khó làm vì một số lý do. Chẳng hạn ta không tiên đoán cũng như không thể có câu đáp ngay tức khắc là cuộc trò chuyện sẽ đi về đâu, việc không biết chắc này là trong các yếu tố khiến người tự kỷ nhất là trẻ và thiếu niên thích trò chuyện với ai lớn tuổi hơn hoặc nhỏ tuổi hơn mình, và tránh bạn cùng trang lứa. Lý do là em có thể làm chủ câu chuyện, nói về đề tài em ưa thích, không bị bối rối vì không có đề tài lạ đưa ra; kế đó người lớn và trẻ nhỏ hơn sẽ chịu lắng nghe em hơn là ngắt lời.
Để giúp con, trước hết tập cho thiếu niên những kỹ năng căn bản như đứng thế nào, hướng về đâu, giữ khoảng cách bao xa v.v. Nếu cần thì dùng hình để làm rõ thêm lời chỉ dẫn. Kế đó dạy con thuật chuyện trò bằng những cách sau:
○ Nói về sở thích đặc biệt của em. Nhiều trẻ tự kỷ ưa thích một ngành riêng biệt hoặc đề tài mà em biết rất nhiều, và em thích về điều này với người khác. Tuy nhiên em cần biết rằng khó có ai thích nghe liên tục 20 phút không ngưng về một chuyện gì, và không phải ai cũng thích đề tài mà em thích. Xin đưa ra một cách để tập cho trẻ tự tin nói chuyện là kêu em viết vào những mẫu giấy nhỏ các đề mục khác nhau, như con thú mà em thích, nơi nghỉ mát ưa chuộng, thời tiết hôm nay, ca sĩ mà em ái mộ, phim xi nê em muốn xem, đĩa CD em muốn mua. Xếp hết các mẫu giấy bỏ vào hộp rồi kêu con lấy ra một mẫu và trò chuyện về đề tài ghi trên đó, nhờ vậy em sẽ học được kỹ năng thảo luận về các đề tài khác nhau ngoài sở thích của mình, và nói được trôi chẩy. Xong chuyện thì bỏ đề tài đó và qua hôm sau chọn một đề tài mới.
○ Tập cho con nói với người đối diện mà không phải là giảng bài cho họ nghe. Nhận xét nói là nhiều người khi nói chuyện với ai tự kỷ thì thấy như họ đóng vai trò hết sức thụ động, có cảm tưởng như được nghe giảng hơn là thực sự trò chuyện. Thiếu niên cần biết thay phiên trong khi nói chuyện, bạn có thể đặt đồng hồ tính giờ (timer) để cho biết được nói trong bao lâu.
○ Điểm quan trọng khác là những câu phải tránh. Trẻ tự kỷ không hiểu được ý người nên có khi hỏi những câu không thích hợp như:
- Lương anh bao nhiêu ?
- Sao chị mập quá vậy ?
Với câu:
- Bà mấy tuổi ?
Bạn có thể giảng là hỏi trẻ con thì được mà không nên hỏi người lớn. Một câu khác cũng nên dè dặt là:
- Anh ở đâu ?
Cho em hay là hỏi về ngoại ô thì không sao, nhưng không nên thúc đẩy để có số nhà và tên đường.
○ Trẻ tự kỷ và nhất là trẻ có hội chứng Asperger có thể có cách nói trịnh trọng, làm em già dặn hơn các bạn, khiến em nổi bật làm mọi người chú ý. Hãy xem chắc là con có những câu trả lời thích hợp với tuổi, thí dụ tập cho em nói với bạn đồng tuổi:
- Số dách !
thay vì:
- Thế thì hay lắm nhỉ !
hoặc nói:
- Còn khuya !
mà không nói:
- Tôi rất tiếc là không được.
hoặc những câu gì phổ thông hiện giờ.
Điểm khác là tập cho con dùng ngôn ngữ khác nhau cho những trường hợp khác nhau, phân biệt mình đang nói chuyện với ai và dùng chữ tương ứng. Thí dụ trả lời bà hiệu trưởng thì sẽ khác với nói chuyện trong lớp giữa bạn bè với nhau; bạn có thể nhấn mạnh ý và giúp con thành thạo bằng cách tập đổi vai người lớn / thiếu niên, bạn / bạn, thiếu niên / trẻ nhỏ hơn, và có hình cho những cảnh này thì càng tốt.
○ Tập cho con quen với việc thay đổi đề tài nói chuyện, không nói mãi điều gì em ưa thích.
○ Cho con thời hạn nói chuyện, đừng nói quá lâu. Bạn có thể dùng đồng hồ tính giờ (timer) để tập với con.
○ Soạn cho con những câu 'tủ', lời bình phẩm dễ nói, câu hỏi có sẵn. Thí dụ dạy con luật: 'Khi người khác nêu ra một đề tài gì, nên hỏi hai hay ba câu sau đó, mà không nên đổi ngay lập tức sang chuyện con muốn nói.'
○ Dạy con cách khơi chuyện, hỏi chuyện làm quen, cách hỏi để chơi chung với bạn và cách chơi chung tức biết thay phiên nói, biết chờ đợi cho người khác nói hết ý của mình trước khi em xen vào bình phẩm hoặc đặt câu hỏi. Một cách để dạy là viết chuyện bằng hình, vẽ hình người với bong bóng chứa đựng ý muốn nói. Theo cách đó trẻ hiểu là ai cũng có điều muốn bầy tỏ và học được ý niệm chờ tới phiên, học được cách suy nghĩ và cảm xúc của người khác. Viết chuyện còn có một lợi điểm khác là bạn có thể soạn ra một số câu dùng cho trường hợp hay gặp, như cách chấm dứt cuộc trò chuyện vì tới giờ phải làm chuyện khác
Trong phần này ta nói nhiều đến việc soạn sẵn một số câu tùy theo trường hợp cho trẻ dùng. Bạn nên dượt tới lui với con trong nhà tức khung cảnh quen thuộc cho em cảm thấy yên tâm, thoải mái và sẽ học dễ. Sự việc chuẩn bị cho em sẵn sàng khi gặp trường hợp phải dùng, và tuy chúng có thể cần nhiều thì giờ để soạn và để tập, khi hữu sự thì chúng sẽ cho ra hiệu quả lớn lao, tránh được phiền toái hay khó khăn cho con và cho bạn.
Luật và câu soạn sẵn có thể cho ý nghĩ rằng thiếu niên nhắm mắt làm hay nói mà không hiểu nguyên tắc của luật, cha mẹ bảo
- Nhưng tôi muốn con biết tại sao phải lễ độ khi nói chuyện với người có quyền hành,
và thầy cô nhận xét:
- Em làm theo bài bản soạn sẵn, mà không phải chính em muốn vậy.
Chuyên gia tâm lý khuyên ta nên từ từ, rồi sẽ tới lúc trẻ hiểu và tự mình biết cách hành động. Trong lúc này ta phải tập cho em những hành vi để liên lạc tỏ ý, cho phép em giao tiếp với người khác; những nguyên tắc, qui luật sẽ hóa rõ ràng hơn cho em, khi thiếu niên có được nhiều cơ hội thực tập việc liên lạc tỏ ý.
Hãy làm cho con học mà vui, giữ óc khôi hài trong khi dạy để làm cho cuộc sống được thoải mái. Bạn có thể thấy những phần trên đòi hỏi nhiều công sức, nhưng con sẽ phải giao tiếp cả đời về sau, bằng cách này hay cách kia trẻ phải học cách giao tiếp có hiệu quả, và cha mẹ không thể không dạy con cách liên lạc tỏ ý.
4. Dạy Khi Nào
Câu đáp tùy thuộc vào hoàn cảnh riêng của gia đình bạn nên không có câu đáp chung, người thì chủ trương lúc nào cũng dạy được, người thì dành một thời khắc cố định hằng tuần như sáng thứ bẩy v.v. Những điều quan trọng cần nhớ khi chọn cơ hội để dạy là:
○ Đừng dạy trong lúc có căng thẳng cao độ. Khi con lo lắng thì em không thể hấp thu bất cứ thông tin mới nào, lấy thí dụ khi em nổi xung vì anh không chịu nhường xe hơi để chơi thì đó không phải là lúc dạy về tính chia sẻ.
○ Cũng y vậy, đừng xếp đặt việc dạy lúc có chương trình truyền hình mà em ưa thích, hoặc vào ngày mà bạn biết con đặc biệt bị căng thẳng như hôm có tập thể dục.
○ Làm buổi học vui vẻ và ngắn. Bắt đầu với hoạt động mà con ưa thích như chơi trò có tương tác, đòi hỏi một số kỹ năng giao tiếp như chia sẻ, làm theo lệnh, lắng nghe, chờ đợi, hoặc điều gì khiến con đặc biệt chú ý. Về sau bạn có thể tăng thời gian buổi học và khiến có phức tạp nhiều hơn.
○ Buổi học đầu chỉ có một thầy một trò, nếu được; qua những buổi sau dần dần cho thêm anh chị em, hàng xóm, bạn học tham dự vào.
○ Xếp đặt để luôn luôn chấm dứt buổi học mà con thành công, làm được chuyện. Hỗ trợ con rồi từ từ lơi dần để con có thể tự làm. Tạo khung cảnh tích cực và khen ngợi con, nó rất quan trọng vì trẻ có thể thấy khó mà tập những kỹ năng này. Trẻ cần được khuyến khích để có tự tin, sẵn lòng nhận rủi ro để thử kỹ năng mới.
II. NHỮNG YẾU TỐ KHÁC.
● Hợp Tác với Trường.
Cho dù ở nhà bạn dạy nhiều và kỹ lưỡng ra sao, nếu thiếu niên không biết tổng quát hóa và áp dụng kỹ năng vào những hoàn cảnh khác thì em không ứng dụng rộng rãi chuyện đã học. Thế thì hãy liên kết với trường, cho trường biết bạn đang dạy con điều chi và xin trường củng cố nó, hỗ trợ trong lúc con ở trường. Điều gì khó khăn ở nhà có thể cũng khó khăn ở trường cho con, và nếu bạn dạy con cách đối phó thì làm vậy có lợi cho trường, nên nhiều phần là trường sẽ sẵn lòng trợ giúp bạn.
Cha mẹ cũng có thể đề nghị có sự linh động trong chương trình học của con ở trường. Lấy thí dụ con được có phụ giáo trong giờ toán và nay bạn thấy con có thể tự ngồi làm bài một mình, nhưng lại thiếu kỹ năng giao tiếp khiến con không có ai chơi, bạn có thể gợi ý là xếp lại giờ cho con có phụ giáo vào lúc ra chơi thay vì giờ toán, để có người dạy con cách tương tác và kết bạn.
○ Gia nhập các nhóm.
Hội Tự Kỷ trong vùng có thể có những chương trình sinh hoạt cho người tự kỷ với các nhóm thuộc lứa tuổi khác nhau. Đây là cơ hội tốt cho con bạn học giao tiếp, thực tập kỹ năng trò chuyện, kết thân. Bạn nên tìm hiểu để cho con tham dự. Ngoài ra trong cộng đồng cũng có nhiều nhóm khác nhau mà trẻ có thể gia nhập tùy theo sở thích. Trường hay thư viện có những lớp giữa hai học kỳ, là dịp cho trẻ mở rộng môi trường tiếp xúc.
● Ý Kiến Thực Dụng.
○ Nhận biết nét mặt.
Nhiều trẻ tự kỷ chỉ biết có ba chữ để nói về tình cảm là vui, buồn và giận và không còn biết thêm chữ gì khác. Cha mẹ hãy bắt đầu với các cảm xúc này rồi nói tới những tình cảm khác như ngạc nhiên, hoang mang v.v. và dùng hình biểu lộ cho con thấy. Bạn có thể làm lấy những hình về nét mặt bằng cách dùng bánh biscuit hình tròn hay vuông làm đầu, hạt nho khô làm mắt, mũi, carot cắt sợi nhỏ làm miệng. Hãy dùng óc sáng tạo làm cho việc học trở nên thích thú, vài cách khác để bạn cùng làm với con là dùng đĩa giấy làm gương mặt và vẽ cảm xúc lên đó, làm mặt nạ, hoặc dùng chính gương mặt của bạn để lộ cảm xúc và dạy con bắt chước, nói chuyện về những trường hợp nào mà bạn có nét mặt như thế.
Phim hoạt họa là một phương tiện hữu hiệu khác để chỉ cho trẻ biết về cảm xúc, vì thường khi nét mặt được biểu lộ thái quá trong phim; bạn có thể cùng con xem phim và ngưng lại ở chỗ thích hợp, nói về khúc đó và bắt chước nét mặt trong phim. Cách nữa là chụp hình gương mặt của con hay bạn hay người khác biểu lộ một tình cảm riêng biệt, và chỉ cho con thấy sự tương đồng giữa các nét mặt; làm vậy cũng giúp cho con biết tổng quát hóa.
Vài website trên internet có hình và trò chơi về nét mặt và những tình cảm khác nhau, bạn có thể in ra để cho con thấy, hoặc cho con chơi trò trong website này:
www.dotolearn.com/games/facialexpression.
○ Nhận biết cử chỉ, điệu bộ.
Nhiều ý tưởng ở trên có thể áp dụng vào việc học về ý nghĩa của bộ dạng thân hình. Sách báo là nguồn tài liệu rất đáng kể, bạn có thể cắt ra hình trong tạp chí mà điệu bộ tích cực hay tiêu cực, hỏi ý con là cảm xúc nào đi với điệu bộ ấy rồi giải thích thêm; hoặc viết tên các cảm xúc ra từng miếng giấy rời và để con ghép cảm xúc với cử chỉ tương ứng.
Chẳng những bạn dạy con hiểu được bộ dạng của người khác, mà điều quan trọng là cũng dạy cho con ý thức điệu bộ của mình. Hai chuyện có thể làm được là chụp hình con lúc giao tiếp với người khác, lúc đi ra ngoài, cho trẻ biết người chung quanh nhìn thấy em ra sao; hoặc thỏa thuận trước với con về dấu hiệu mà bạn sẽ làm (như vỗ trán, xoa tay) khi con có điệu bộ không thích hợp nơi công cộng, để con biết và tự sửa.
● Tình Cảm.
Bạn chỉ nên qua mục này sau khi đã dạy con những kỹ năng căn bản ở trên. Trong phần này điều nhắm tới là cho con biết những động cơ nằm sau tình cảm, cùng hiểu rằng phản ứng tình cảm của mỗi người rất khác nhau. Đầu tiên, hãy lập một danh sách những cảm xúc như buồn, hân hoan, kế đó vài ngày bạn lại dạy con một cảm xúc mới (kêu con biểu lộ nó), nói về khi nào con cảm thấy như thế, kể lại chính bạn có cảm xúc ấy lúc nào để con hiểu thêm. Nếu muốn bạn có thể giúp con lập 'từ điển cảm xúc' bằng cách chụp hình con diễn tả một cảm xúc, hoặc kêu con vẽ hình để coi lại khi cần.
Khi đã có danh sách hoặc từ điển rồi, trẻ có thể phân loại cảm xúc tích cực và tiêu cực và tô mầu hoặc viết chữ bằng mầu tương ứng (thí dụ tiêu cực là mầu đỏ còn tích cực là mầu xanh), hoặc dán sticker mầu đỏ hay xanh lên một góc của hình, lý do là người tự kỷ thích những gì thấy được và dùng mầu sắc là một cách để các ý niệm trừu tượng hóa ra cụ thể hơn, dễ nhận hơn. Tốt hơn nữa là cho con chọn mầu sắc, và khi con đã hiểu cảm xúc thì có thể khơi rộng ra là dùng số để cho biết cường độ của cảm xúc (1 = ít, 2 = vừa, 3 = nhiều v.v) hoặc cách khác là vẽ hình nhiệt kế bên cạnh gương mặt hay chữ. Ý chính vẫn là diễn đạt tư tưởng bằng hình để giúp em hiểu.
Tập thói quen hỏi về cảm xúc của mỗi người trong nhà vào những lúc khác nhau trong ngày, thí dụ sáng mới dậy, chiều đi học về, sau khi coi truyền hình. Trẻ sẽ thấy rằng mỗi người cảm xúc về những chuyện khác nhau vào những lúc khác nhau trong ngày, và không phải ai cũng cảm nhận giống em.
Thiếu niên có thể lớn về thể xác nhưng trí não chưa phát triển theo kịp và vẫn còn tri thức của trẻ nhỏ. Trong trường hợp ấy nếu em thích các chuyện, phim nhi đồng thì ta có thể dùng chính các nhân vật trong đó làm mẫu. Cũng có em từ nhỏ tới lớn chỉ thích một số video, coi đi coi lại bao nhiêu năm không chán, ấy cũng là cơ hội để bạn dùng phim mà dạy con. Thường thường phim có một vai trưng ra nét thân thiện, điềm tĩnh, ôn hòa; vai khác lại mang tính đối nghịch như hung hăng, ồn ào, chộn rộn; vai nữa thì lừ đừ, chậm chạp, có rất ít tự tin. Khi bạn ví hành vi của con với nhân vật trong phim và nói:
- Con ào ào như chú cọp con X, phải dịu xuống thì em con mới hiểu con muốn gì.
thì rất có thể nó làm trẻ hiểu là lúc ấy người khác nhìn em ra sao.
Cử động thân hình là một cách khác để dạy về cảm xúc. Bạn có thể bảo con:
- Nhẩy cà đổng, nhẩy tưng tưng
như gặp điều giận dữ, hoặc:
- Nhẩy chân sáo, nhẩy tung tăng
giống như người có chuyện vui thích, và:
- Ngồi lặng lẽ
bắt chước ai ôn hòa.
Làm vậy giúp trẻ liên kết cảm xúc trong lòng với bộ dạng bên ngoài, và cũng hiểu ta xử sự ra sao khi cảm nhận một điều gì. Nói qua một chút về cách đối phó với lòng giận dữ, trẻ sẽ không hiểu được 'làm dịu xuống' nghĩa là sao nếu trước đó em không biết cảm xúc ôn hòa, lắng dịu là gì. Em cần biết cảm xúc là như thế nào, thấy nét mặt ra sao, nghe nó (giọng vui vẻ hay cau có) rồi mới có thể điều chỉnh hành vi của mình.
Những cách tập này chính yếu dành cho thiếu niên tự kỷ có khả năng thấp hay trung bình, và có thể không hợp cho trẻ có khả năng cao hay có chứng Asperger. Với các em sau cách thức cần theo qui củ hơn và có phần tinh tế hơn.
● Hiểu Được Trí Người (Theory of Mind ToM)
Có nhận xét cho là trẻ tự kỷ và trẻ có chứng Asperger làm như không biết những luật bất thành văn của việc giao tiếp trong xã hội, và sẽ vô tình nói hay làm những điều có thể chọc giận hay làm người khác bực mình. Chúng thấy khó mà đặt mình vào địa vị người khác, hoàn cảnh khác, và cũng khó mà hiểu là họ có thể có cảm nghĩ, sở thích khác với mình. Đây là điều mà nhiều trẻ gặp xung đột và là lúc hành vi không thích hợp xẩy ra. Bạn có thể không dạy được con thực sự hiểu quan điểm của người khác, nếu vậy thì mục tiêu chính là giúp em ý thức rằng họ có suy nghĩ khác với em.
Một cách giải thích là giả dụ đi chợ, hỏi em muốn mua gì rồi nói tới người mà em quen biết, cùng nhau đoán là họ thích mua những món nào rồi phân tích tại sao. Thảo luận những kinh nghiệm hàng ngày cho thấy người ta phải chọn lựa ra sao, nêu rõ cho con thấy như khi chọn mua quần áo, chọn thức ăn theo ý, chọn chương trình truyền hình v.v.
● Khi làm sai, bị thua, có xung đột.
Đây là những tình trạng mà người tự kỷ thấy rất khó xử, nó đòi hỏi cách đối phó khéo léo với người khác nhưng đó là kỹ năng mà họ yếu kém, một phần vì không hiểu được trí người, phần khác do không nhận ra được tình cảm của chính mình hay của người khác, vốn là hai trong số những khó khăn chính của chứng tự kỷ. Nhiều hành vi không thích hợp bắt nguồn từ hai thiếu sót này, thí dụ như khi bực bội thì la hét và bỏ chạy là chuyện dễ làm cho thiếu niên hơn là nói:
- Tôi không hiểu, tôi cần được giúp đỡ.
Kỹ năng này rất khó tập cho người tự kỷ và cần nhiều sự kiên tâm, trì chí.
○ Làm sai.
Trẻ tự kỷ dễ vo giấy lại và bỏ thùng rác thay vì gạch bỏ câu sai và làm lại. Hãy thuật lại sai sót của bạn, thêm mắm thêm muối một chút cho lôi cuốn để thiếu niên thấy là người khác cũng có lúc phạm lỗi, và chuyện có thể sửa lại được. Hãy nói ra cảm xúc của mình:
- Đổ ly nước rồi, mẹ ngượng quá.
rồi cho hay cách giải quyết:
- Để mẹ lau sạch rồi rót ly khác.
○ Xúc động mạnh.
Nếu thiếu niên có ngôn ngữ thì dạy con kỹ năng đối phó với xúc động khi em nhận ra có những dấu hiệu báo trước như người căng thẳng, thở hơi ngắn; nếu em không biết nói thì bạn nói tên cảm xúc cho con biết, và hướng con đến sinh hoạt làm dịu xuống. Cách khác là cho con tấm thẻ viết chữ 'Giúp Em', để thiếu niên đưa cho người lớn trong trường hợp em không thể nói lên xúc động trong lòng. Lẽ tự nhiên bạn phải giải thích thẻ để làm gì, khi nào dùng thẻ; và nhất là để thẻ ở một chỗ nhất định cho con có ngay khi cần.
○ Được, thua.
Có bàn thảo cả nhà về chuyện thắng thua với tin trên báo như tranh tài thể thao, giải thưởng xuất sắc trong năm v.v.
○ Xung đột.
Khi con có tranh chấp hoặc tranh cãi với người khác thì chuyện cần được bàn thảo và có giải quyết cho xong. Điều cần nhớ là giải quyết phải dựa trên sự kiện thực tế thay vì tình cảm, vì nêu ra lý do tình cảm sẽ không thuyết phục được người tự kỷ. Hãy theo sát dữ kiện và giúp con nhận ra những phần khác nhau của việc mà có thể trẻ bỏ qua, thí dụ quan điểm của người khác, hiểu lầm lời nói, ẩn ý v.v.
Đề nghị đưa ra là vẽ hình hai người tranh cãi với bong bóng ghi lời nói và ý nghĩ, cảm xúc, hành động của mỗi bên. Hình là phương tiện cụ thể cho thiếu niên xem lại và ngẫm nghĩ thêm, nhắc nhở em kinh nghiệm trải qua, mà cũng trưng cho thấy rõ ràng những điều có thể bị che khuất như tình cảm, ý định, giúp em hiểu được ý người; hình còn nhấn mạnh thêm lời giải thích của bạn. Xem phim, kịch trên truyền hình hay video cũng cho bạn thêm ý về cách xử sự trong những trường hợp giao tiếp khác nhau. Bạn có thể thâu lại phim và ngưng ở đoạn cần giải thích, thảo luận với em về cách đối phó trong trường hợp ấy.
Lòng tự tin cũng can dự ở đây. Trẻ tự tin sẽ không lo lắng khi làm sai một chuyện, nhưng trẻ thiếu sót kỹ năng và cảm thấy bất an với môi trường chung quanh có thể rất bực bội với cùng sai sót ấy. Giúp con tăng cường lòng tự tin và tạo khung cảnh dễ tiên liệu việc sắp tới, có thể làm giảm thiểu ảnh hưởng khi làm sai. Chót hết, nói về sinh hoạt con sắp làm (thí dụ như trò chơi) trước khi bắt đầu cũng giúp ích cho trẻ. Nếu mục đích của sinh hoạt là thắng cuộc thì cho em biết kết cục có thể là thắng mà cũng có thể là thua, và giải thích tính chất của trò chơi. Bạn sẽ thấy có em ngạc nhiên là sẽ có người bị thua !
III. TÌNH BẠN
Cha mẹ hay kể rằng biết con không có bạn hoặc khó có bạn, nên họ giúp baèng cách mời bạn của trẻ đến nhà chơi. Phút trước hai trẻ chào hỏi nhau, ra sân chơi, vài phút sau bà mẹ quay lại thì chỉ thấy bạn chơi một mình ngoài sân, còn thiếu niên đã quay lên phòng ngồi đọc sách như thói quen cố hữu. Em không biết phải đối xử ra sao với bạn, cho dù cha mẹ đã dạy việc ấy bao lần.
Có giải thích đó là do thiếu khả năng hiểu được trí người (Theory of Mind TOM), yếu kém này có thể là nguyên nhân cho tính ngây thơ hay gặp nơi người tự kỷ, lớn cũng như nhỏ. Chuyện kể Samantha có chứng tự kỷ học trường bình thường, bị trẻ ở đó cố tình chọc phá; thường khi chúng kêu em làm chuyện không chấp nhận được như cởi hết y phục ở sân chơi. Khi ai cũng phá ra cười thì Samantha rất hoang mang, em tin rằng làm theo lời 'bạn' yêu cầu sẽ khiến trẻ khác coi em là bạn, là điều em mong muốn.
Ta nhắc lại là trẻ tự kỷ có khuynh hướng tương tác dễ dàng hơn và tốt đẹp hơn với người lớn, vì người lớn thường khiến cho việc hóa dễ hơn cho em, và họ trò chuyện với em nhiều hơn là em nói với họ. Khi đó họ gượng nhẹ và nâng đỡ trẻ nhưng cách xử sự ấy không chuẩn bị đầy đủ cho em để có tương tác khó hơn với bạn đồng tuổi.
Vì trẻ khó có bạn, có hai điều cần làm là trước hết giúp em phát triển kỹ năng cần thiết bởi em thiếu những điều này, thứ hai là tạo cơ hội cho em tương tác. Điều sau có nghĩa bạn phải biến đổi môi trường cho thuận lợi hơn để tăng cơ may thành công, em được trẻ bình thường hiểu kỹ năng mới và chấp nhận. Vài thí dụ cho việc biến đổi môi trường để việc giao tiếp có kết quả là chỉ dẫn cho bạn cùng lớp về đặc điểm của chứng
tự kỷ, đề nghị những cách tương tác, chọn vài trẻ tình nguyện kết bạn và làm gương cho trẻ tự kỷ bắt chước.
Chuyện khác cũng nên nhớ là người ta có thể cho rằng trẻ bước vào tuổi thiếu niên hàm ý em có khả năng suy nghĩ nhiều hơn, có thể nắm bắt những ý niệm trừu tượng và khởi sự dạy các ý niệm ấy. Nó không hẳn diễn ra như vậy, mà nhiều phần ta nên nhớ người tự kỷ có trí óc rất cụ thể và khó hiểu điều trừu tượng. Lấy thí dụ thầy cô muốn dạy ý niệm tình bạn cho trẻ, và than phiền là em không nắm được ý nhưng đúng ra thì thầy cô là người không nhận ra vấn đề. Đa số trẻ hiểu tình bạn là gì tuy nhiên ý này tỏ ra tế nhị và trẻ tự kỷ không hiểu được, cũng như khi người ta có một hay hai bạn rồi thì hiểu ý niệm tình bạn dễ hơn !
Nhiều người tự kỷ muốn có giao tiếp mà thiếu kỹ năng cần thiết để giao tiếp có hiệu quả; nhà trường nhận xét một thiếu niên là có hành vi không thích hợp và tỏ ra thờ ơ với các trẻ khác. Quan sát thì thấy trong bữa ăn chung, một nhóm trẻ cùng bàn thảo luận về cóc. Các em vừa bắt đầu thì trẻ tự kỷ chú ý ngay, em nghe rồi bắt đầu cởi giầy, cởi vớ; ngay khi tháo cả hai vớ bỏ xuống đất, trẻ gác cả hai chân lên bàn, nhìn vào đám trẻ kia và nói to:
- Vầy nè, chân có màng !
Đám trẻ ngó em kinh ngạc. Ta thấy ngay là trẻ tự kỷ tỏ ý muốn nhập bọn, muốn là một phần trong khung cảnh xã hội mà thiếu kỹ năng cần thiết để thực hiện được ý theo cách thích hợp và hữu hiệu.
Việc 'không biết cách' này có thể dẫn tới cảm xúc lo lắng về mặt tương giao cho một số trẻ. Nhiều thầy cô và cha mẹ nói rằng khung cảnh giao tiếp bình thường làm trẻ hết sức lo ngại, còn người tự kỷ nói họ có sự lo lắng giống như điều mà nhiều người trong chúng ta kinh nghiệm khi phải đứng nói trước công chúng (tim đập mạnh, đổ mồ hôi tay, run rẩy, khó định trí v.v.) Chẳng những mở miệng nói là chuyện khó, mà chỉ nghĩ tới việc phải làm cũng đủ khiến ta lên ruột. Cách đương đầu tiêu biểu cho đa số chúng ta là tìm cách tránh tình trạng gây ra căng thẳng; cho người tự kỷ là tránh khung cảnh đòi hỏi phải giao tiếp, và hệ quả là không phát triển kỹ năng.
Khi trẻ tiếp tục tránh việc gặp gỡ phải giao tiếp, em tự đánh mất cơ hội để thụ đắc kỹ năng tương tác, tiếp xúc. Với vài người thiếu những kỹ năng này dẫn tới việc tương tác bất lợi với bạn cùng trang lứa, bị tẩy chay, cô lập, lo lắng, sầu não, và luôn cả có ý tự tử. Với kẻ khác nó cho ra khuynh hướng có thú vui giải trí và sinh hoạt cô độc, thành thói quen khó thay đổi. Trẻ nào tỏ ý thích tương tác với bạn thì sự lo lắng nhiều hay ít đóng một vai trò quan trọng cho sự phát triển về mặt xã hội của em. Có trẻ lo lắng khi nghĩ tới chuyện đến gần ai, và có thể tránh nó bằng mọi giá; sự tránh né này làm em có vẻ như không chú ý đến người khác nên chuyện quan trọng là phân biệt điều này, vì ta dễ chữa tật lo lắng hơn là việc thực tình không màng tới ai.
Với thiếu niên tự kỷ nào tỏ ra không quan tâm đến việc có bạn và chấp nhận rằng con không muốn tiếp xúc, cha mẹ vẫn bầy tỏ nỗi lo ngại lớn nhất của mình là về sau con sẽ cô đơn, không có ai thân cận. Trên thực tế, thiếu niên tự kỷ có thể không màng tới việc kết thân với ai, nhưng nhiều thiếu niên AS muốn có bạn, và có bạn thân. Em đi tìm bạn và mong duy trì tình bạn nhưng không thành công, nhiều lần không xong làm thiếu niên bỏ cuộc. Ta sẽ xét tới ba điều sau đây là việc kết bạn, tạo cơ hội rồi kéo dài tình bạn, có sự thân thiết.
1. Kết Bạn.
Khó mà định nghĩa thế nào là một người bạn, và người tự kỷ bị hoang mang nhiều vì không biết được ai là bạn hay không, và lắm khi hiểu lầm ai đó là bạn. Lòng tương thân, sự hồi đáp tình thân, khoan dung, tôn trọng nhau là những điều thấy trong tình bạn chân thật, nhưng đây là những ý niệm trừu tượng và do đó khó hiểu cho người tự kỷ nên không lạ gì thiếu niên thấy rối trí và khó có bạn. Ngoài vấn đề có tri thức đủ để hiểu ý niệm, thiếu niên còn phải có kỹ năng về liên lạc tỏ ý, giao tiếp, tự điều chỉnh hành vi, là những điều khó làm cho em, nên việc đầu tiên là cha mẹ cần thuyết phục để con chịu tập thành thạo các kỹ năng này trước khi tới việc kết bạn.
Vài cách được đề nghị để phát triển kỹ năng kết bạn:
● Có bạn cùng tuổi chỉ dẫn.
Cách này được xem là phương pháp hữu hiệu cho trẻ tự kỷ; nó cho phép ta xếp đặt môi trường làm việc tương tác có nhiều cơ may thành công. Theo đó, bạn đồng tuổi được huấn luyện để dự vào việc bằng cách khơi chuyện hoặc đáp ứng mau lẹ và thích đáng trong ngày học khi trẻ tự kỷ mào đầu. Trẻ nên là bạn học trong lớp, có kỹ năng giao tiếp và chơi đùa tương xứng với tuổi, có thái độ tích cực với trẻ tự kỷ. Em cũng cần được cho biết về hành vi hay có của người tự kỷ. Việc dùng bạn đồng trang lứa có lợi điểm là kỹ năng học được sẽ được thực tập cho bạn bè trong khung cảnh tự nhiên, do vậy tập cho trẻ tự kỷ việc tổng quát hóa.
● Học Tương Tác.
Thiếu niên tự kỷ có thể miệt mài với sở thích của mình, chỉ biết có nó và chỉ nói về đề tài ấy không màng chuyện gì khác. Em thiếu sự đối đáp qua lại, nói chuyện một chiều không có sự trao đổi, cho và nhận; trong câu chuyện em không hỏi người khác và cũng ít khi nói về sở thích, quan tâm của người khác. Để chữa tật này, có phương pháp được áp dụng gọi là 'Làm Ký Giả'. Trẻ được cho đóng vai ký giả tờ báo đi phỏng vấn người khác; em hỏi những điều giản dị như tên, tuổi, sở thích và điều quan tâm. Mục đích chỉ là tập cho trẻ thói quen đặt câu hỏi, gia tăng việc cho và nhận khi trò chuyện; khi đã quen em có thể được tập hỏi những câu thăm dò sâu hơn, để có thêm chi tiết về người khác. Có trẻ thích thú với cách luyện tập nên xin nhiều tờ mẫu mang về nhà.
Tùy theo trẻ, ta có thể đi xa hơn và biến đổi cách này một chút để dạy thêm kỹ năng biết thay phiên, cho và nhận. Thí dụ trẻ tự kỷ được yêu cầu hỏi người khác một câu, người kia trả lời xong tới phiên họ đặt câu hỏi với trẻ tự kỷ; nếu muốn công bằng thì dùng đồng hồ tính giờ hay dụng cụ tương tự, mỗi lần ai hỏi xong thì bấm giờ, có giao hẹn trước là mỗi câu phải trả lời trong vòng bao lâu. Việc trao đổi qua lại này diễn ra trong thời gian nhất định nhằm mục đích là cuối cùng không cần đồng hồ tính giờ nữa trong khi tương tác. Nó tập cho trẻ ứng đối, và thường khi trẻ ăn nói lanh lẹ cũng gặp khó khăn với sinh hoạt này.
● Viết Chuyện (Social Stories).
Cách này đã được nói tới trong những sách trước đây về chứng tự kỷ, xin bạn xem lại. Ở đây ta nói thêm chuyện kể là phương pháp không ép buộc (khác với cách trên), trình bầy các ý niệm và luật trong xã hội dưới hình thức câu chuyện ngắn. Nó có thể dùng để dạy nhiều ý niệm về xã hội và hành vi, như việc chuyển di từ mục này sang
mục kia (là việc khó khăn với người tự kỷ do tính không thích thay đổi và thay đổi sẽ dẫn tới điều không biết làm họ e ngại), chơi trò, đi cắm trại. Cô Carol Gray nghĩ ra phương pháp này năm 1995, đặt ra một số điểm chính yếu để chuyện kể thành công:
– Chuyện phải được viết để đáp lại nhu cầu riêng của trẻ.
– Chuyện phải là điều gì mà trẻ muốn đọc cho mình (tùy theo khả năng)
– Chuyện phải tương xứng với khả năng và mức hiểu biết của em
– Và dùng chữ uyển chuyển như 'có thể', thay vì xác quyết như 'phải', 'sẽ'. Điểm này đặc biệt quan trọng cho trẻ nào có khuynh hướng chống đối, thách thức.
Chuyện kể có thể đi kèm với hình và cho vào máy điện toán, lợi dụng việc trẻ thích chỉ dẫn bằng hình và ưa thích điện toán. Có nhận xét đưa ra là trẻ học được nhiều nhất khi học cùng với việc đóng vai, có nghĩa sau khi viết chuyện xong thì trẻ tập kỹ năng nói tới trong chuyện. Thí dụ đưa ra là khi đọc xong một chuyện về việc giơ tay trước khi nói trong lớp, trẻ sẽ tập giơ tay để cô giáo gọi.
● Đóng Vai, Đổi Vai (Role play)
Đóng vai được dùng chính yếu để dạy những kỹ năng căn bản về giao tiếp. Thường khi trẻ tự kỷ gặp rất nhiều khó khăn trong việc mở đầu việc tương tác xã giao, và để cho trẻ khác dự vào các sinh hoạt của em; nhiều em chỉ dự những sinh hoạt với trẻ khác nếu chính em khởi đầu việc tương tác. Đổi vai gồm có việc diễn những sự tương tác xã giao mà trẻ gặp phải hằng ngày; trong lúc chơi đổi vai, trẻ có thể được yêu cầu khơi mào cuộc nói chuyện với người khác khi người này đang làm một chuyện riêng biệt. Khi đó em sẽ phải hỏi để nhập cuộc, hoặc hỏi người kia chơi với em trong một sinh hoạt khác; người ta thấy cách thứ hai là khó nhất cho trẻ tự kỷ. Em có thể tắc tị mấy phút không biết nói gì hay tiến hành ra sao; mới đầu ta nên cho em có nhiều thì giờ để giải quyết và đáp ứng với cảnh ngộ, rồi sau vài lần em sẽ tăng sự khéo léo và hóa mau lẹ hơn.
● Tự Làm Mẫu bằng băng video.
Phương pháp này là một cách chỉ dẫn để thúc đẩy việc học kỹ năng, cải thiện chúng. Người ta học có kỹ năng bằng cách quan sát chính mình thực hiện chúng. Ưu điểm của nó là phương pháp cho phép người ta học bằng quan sát lẫn bằng kinh nghiệm cá nhân, và nghiên cứu thấy là nó có nhiều hứa hẹn cho trẻ tự kỷ. Trẻ được dạy cách mua hàng ở tiệm, kết quả là nó gia tăng mức hữu hiệu hành vi mua hàng mà trẻ xem video còn biết tổng quát hóa kỹ năng, để áp dụng cho những cửa hàng khác không có trong video.
Nhận xét nói dùng video trình bầy kỹ năng là ta sử dụng tính chất học bằng mắt của người tự kỷ, mặt khác nhiều trẻ tự kỷ thích xem video nên khi dùng hình thức này là ta gia tăng động lực và khiến có sự chú ý hơn về lời chỉ dẫn. Kế tiếp, video cho ta cơ hội mổ xẻ và phân tích một cuộc gặp gỡ với trẻ khi chuyện đã xẩy ra rồi. Trong lúc coi video ta có thể ngưng lại để giải thích, và nếu cần lại có thể đi ngược để trở lại chỗ muốn nói; nó cũng cho phép áp dụng cách giải quyết sự việc. Cách giải quyết được nhắm tới những khiếm khuyết của người tự kỷ trong việc đối phó với chuyện xã giao, và nó dễ dàng được dàn xếp để mang vào video.
Lợi điểm khác của video là ta có thể nhuận sắc, gạt bỏ những đoạn có người trợ giúp, nhắc nhở để khi trẻ coi lại em sẽ chỉ thấy cảnh em tương tác đúng cách. Mục đích
của video là cho trẻ học từ cảnh em làm đúng, không phải cảnh làm sai, và em sẽ coi tới coi lui đoạn có em đóng kịch xuôi rót, cho trẻ cảm tưởng độc lập và thành công.
Trên đây là những phương pháp khác nhau cho gia đình và chuyên viên về việc kỹ năng giao tiếp cho trẻ tự kỷ. Điều cần nhớ là không phải mọi cách đều thích hợp cho mọi trẻ, mà người ta cần xếp đặt để bảo đảm là phương pháp được chọn sẽ thích hợp cho nhu cầu riêng biệt của trẻ. Do đó soạn chương trình để sử dụng cả ưu điểm lẫn khuyết điểm là điều quan trọng hàng đầu.
● Phương Pháp Tích Cực Ở Nhà.
○ Hãy giải thích và xem chắc con hiểu nghĩa chữ 'trò chơi, chơi' là gì. Điều quan trọng em cần biết là trong nhiều trò chơi sẽ có bên thắng và bên thua, một số lớn trẻ tự kỷ không hiểu được điều này trừ phi bạn thảo luận với em trước. Sau khi tập cho em quan sát bạn bè ở sân chơi, dạy con cách chọn trẻ nào có sở thích tương tự mà em có thể chơi, thí dụ muốn nói về túc cầu thì hãy chọn trẻ nào chơi túc cầu, thay vì chọn trẻ thích đọc sách hay thích chơi máy điện toán. Trẻ tự kỷ có thể nghĩ là ai khác cũng thích nghe điều em muốn nói trong khi thực tế khác xa.
○ Dạy con những câu để nói khi muốn chơi với ai, và tập các vai ấy với trẻ trong cả hai trường hợp là tỏ ý muốn chơi chung và được nhập bọn, hoặc bị từ chối. Nếu cần thì viết ra giấy để con có sẵn khi muốn coi lại, tuy nhiên đề nghị này không chắc hữu dụng; trẻ tự kỷ thường đã có dáng điệu lóng cóng dễ gây chú ý, nay em móc túi cầm giấy coi rồi mới hỏi bạn thì hình ảnh đó khiến em bị chú ý nhiều hơn ở sân chơi và có thể bị chọc ghẹo.
○ Khuyến khích con đi tới gặp thầy cô nếu mở lời mà không được đáp ứng, thay vì tranh luận với bạn; giải thích là tranh luận có thể khiến những lần sau khó mà chơi với bạn hơn, cũng như khi em không vui vì bị từ chối thì nên xin thầy cô tìm chỗ để dịu xuống hơn là tranh luận.
Cha mẹ cần giúp con học về tình bạn và sự thân thiết, không những tình bạn và sự thân thiết tự chúng đáng quí mà chúng còn là điều phải có, để sau này khi thành niên dẫn tới tình cảm lứa đôi lành mạnh và thành hôn.
Thiếu niên tự kỷ gặp nhiều trở ngại trong việc tạo và duy trì tình bạn. Khó khăn về cảm quan và cách liên lạc tỏ ý làm em không có bạn lúc tuổi nhỏ, sau đó hành vi khác thường và yếu kém về tình cảm thường ngăn cản không cho em dự vào những sinh hoạt với bạn đồng tuổi, ở trường cũng như ở khu phố. Phần khác đa số trẻ tự kỷ và vài trẻ có chứng Asperger không quan tâm lắm đến trẻ khác mà thích chơi một mình những trò của riêng em, theo cung cách của em; những trò này cũng như cách chơi của em khiến cho trẻ khác không chơi chung và do vậy, không cho cơ hội cũng như không cho em kinh nghiệm để tạo nên tình bạn. Do đó nếu thiếu niên tự kỷ muốn có bạn thì có nhiều điều em cần phải học và thực hành.
Em có thể hỏi tại sao cần phải tập kỹ năng để tạo tình bạn nếu em không hề muốn có bạn, không quan tâm đến ai và hài lòng với việc chơi riêng một mình, thấy không có gì cần phải thay đổi. Sống một mình thì có hại đến ai khi em thích sống như vậy ? Có vài câu trả lời cho ý này:
– Ta nên cho mình có nhiều chọn lựa. Khi có kỹ năng kết bạn, ta có thể chọn là muốn hay không muốn làm bạn với ai; nếu không có những kỹ năng này ta sẽ có ít chọn lựa, đời sống sẽ bớt phong phú hơn.
– Học và tập ở trường những kỹ năng kết bạn thì dễ hơn là học và tập sau này khi
trưởng thành ở nơi khác. Nếu thực hành thì trường và khu phố sinh sống thường là nơi cho cơ hội tốt nhất.
– Nghiên cứu thấy là kỹ năng về việc liên lạc tỏ ý và kết thân là dấu hiệu cho biết thành công ra sao nơi chỗ làm việc, mà không phải là óc thông minh. Với sinh hoạt ngày nay càng ngày càng dựa vào việc tìm kiếm và chia sẻ thông tin, kỹ năng tương tác, giao tế càng lúc càng quan trọng.
– Tài liệu cũng ghi rằng sự tương giao với người khác quan trọng cho sức khỏe và tuổi thọ, những ai sống lâu nhất là người tích cực giao tiếp.
2. Tạo Cơ Hội
Khi con bằng lòng học để có kỹ năng, cha mẹ có thể tạo cơ hội cho trẻ tập chúng và có bạn. Nhiều tình bạn nẩy nở (nhất là cho con trai) không phải do trò chuyện mà do làm chung việc với nhau. Một số phương pháp đã mang lại kết quả là:
○ Tìm những hội quán hay sinh hoạt sau giờ học mà có liên quan đến lòng si mê của thiếu niên. Dành thì giờ với ai cũng vui thích cùng những điều hay vật như mình ở tuổi này là giống như trẻ nhỏ chơi cạnh nhau. Nó cho thiếu niên cơ hội quan sát người khác và sau đó, liên kết được phần nào với họ.
○ Khuyến khích thiếu niên mời những trẻ khác cùng dự vào những sinh hoạt đặc biệt có sẵn qui củ. Thí dụ tương tác khi chơi vài bàn ping-pong ở hội quán thanh niên thì dễ hơn là hẹn bạn tới nhà chơi.
○ Khi thiếu niên mời bạn tới nhà, hãy sắp xếp cuộc chơi quanh một công việc hay sinh hoạt, như các trẻ chơi một trò chơi điện tử mới, xây nhà chòi ngoài vườn v.v.
○ Đừng quên cơ hội làm thiện nguyện. Công việc như đọc sách ở nhà trẻ hoặc chơi đàn ở trung tâm sinh hoạt cao niên cho phép thiếu niên liên kết được với người khác. Nếu có bạn cùng làm thiện nguyện với em thì hay hơn nữa.
Một khi đã có cơ hội để tương tác thì điều quan trọng là xem chắc để thiếu niên biết là có cơ hội và nắm lấy nó.
○ Xem chắc là thiếu niên biết dấu hiệu nào tỏ ra là người kia sẵn lòng kết bạn, thí dụ như nhìn vào mắt hàm ý khuyến khích, đứng cạnh, đùa giỡn, hoan nghênh, và ngỏ lời muốn giúp đỡ, nói thẳng và bầy tỏ ý kiến với nhau.
○ Xem kỹ là thiếu niên biết đáp ứng tương tự ra sao.
○ Dạy cho con biết nói thành thạo những câu mở đầu, khi nào và dùng nó ở đâu.
○ Dạy con biết những điểm chính yếu trong việc giao tiếp, chẳng hạn khi có bạn tới chơi thì biết lắng nghe bạn nói gì và muốn làm gì, cũng như không thể làm ngơ bạn và làm điều con muốn làm như bỏ mặc bạn chơi đu còn mình vào phòng chơi trên máy điện toán.
○ Giúp con phân biệt giữa việc đùa giỡn vui tánh và việc quấy nhiễu hoặc bắt nạt. Điều này khó cho người tự kỷ nên bạn có thể cần nhiều công phu và thì giờ.
○ Dạy kỹ cho con hiểu cách trò chuyện qua lại hai chiều thay vì chỉ có một chiều độc thoại.
○ Làm cho con hiểu rằng không có người bạn nào hoàn toàn cho ta hết mọi điều ta cần. Đa số chúng ta thích có bạn này trong khung cảnh này, và bạn khác trong khung cảnh khác. Điều quan trọng cần làm cho con biết là người bạn có giá trị cho dù không hòa hợp với điều ta muốn 100%.
○ Cho trẻ hiểu là không phải ai cũng trở thành bạn, đa số chúng ta có nhiều người quen mà chỉ một số ít là bạn. Điều này làm em không thất vọng cho lắm khi giao kết không thành.
3. Duy Trì Tình Bạn
Nhiều trẻ tự kỷ không hiểu được trí người khác nên không biết họ muốn hoặc cần điều gì khi kết bạn. Cha mẹ có thể chỉ dẫn con cách nuôi dưỡng tình bạn như sau:
○ Giúp thiếu niên đáp trả lại những lời mời của bạn bè khi nào có thể được.
○ Trước khi con đi chơi chung với bạn bè, giúp con nghĩ xem người bạn sẽ muốn hay không muốn làm hay ăn gì. Thực phẩm là vật cụ thể và dễ là đầu đề nói chuyện, cũng như dễ khuyến khích cho em nói. Sau buổi chơi, hỏi con là người bạn làm, nghĩ và cảm thấy gì trong lúc sinh hoạt. Nếu con không biết thì cha mẹ giúp con nối kết dữ kiện với diễn giải có thể có.
○ Nếu cha mẹ biết điều gì phấn khởi về người bạn của trẻ hay gia đình của thiếu niên này và là điều ai cũng biết thì nói cho con cũng biết, và tập với con cách nói về chuyện này với người bạn.
○ Nếu người bạn đang gặp cảnh khó khăn và đây là hiểu biết chung, hãy chỉ dẫn cho con nên nói hay không nên nói điều chi. Thiếu niên tự kỷ thường không biết lựa lời mà đi thẳng vào chuyện làm người bạn khó xử khi họ không muốn đề cập tới chuyện. Dạy cho trẻ biết là em có thể giúp người bạn bằng cách tỏ ra ân cần nhiều hơn, thay vì hỏi những câu thẳng thừng về chuyện; làm như vậy chẳng những giúp con duy trì tình thân mà đồng thời cho con hiểu thế nào là thông cảm
○ Khi chính em gặp khó khăn, giúp em quyết định là nên hoặc không nên cho bạn bè hay, và nên chia sẻ như thế nào.
Ngoài ra bạn bè đúng nghĩa còn là người vẫn quí mến ta dù không đồng ý, nên sẽ có lúc đôi bên sẽ có xung đột tư tưởng. Đối phó với xung đột là chuyện khó cho người bình thường, và lại càng khó hơn nữa cho người tự kỷ; ngoài những khó khăn vốn dĩ của chứng này, em còn gặp trở ngại do cách suy nghĩ thẳng băng thiếu uyển chuyển, không biết những điểm tế nhị trong cách giao tế. Dưới đây là những góp ý thêm vào kinh nghiệm mà cha mẹ có sẵn để dạy con.
○ Giải thích việc không đồng ý là sao, và tăng cường ý niệm có lý là ta vẫn có thể là bạn với nhau cho dù bất đồng tư tưởng.
○ Với ý niệm không có lý thì dùng chứng cớ để thuyết phục. Giả dụ con nói rằng tình bạn chấm dứt khi đôi bên có tranh luận, hãy nói với con về chuyện gì đã xẩy ra khi con bất đồng ý kiến với người khác trong quá khứ. Có gì cho thấy là người kia vì vậy không hề muốn giữ tình thân với trẻ nữa ? Có gì cho thấy là họ vẫn còn là bạn với thiếu niên ?
○ Lắng nghe con diễn giải chuyện gì xẩy ra và khoan bầy tỏ ý bạn. Gợi ý để con hiểu càng nhiều càng tốt về chuyện và hiểu mình nghĩ, cảm thấy gì. Khi mọi việc rõ ràng và con tỏ ý sẵn sàng nghe ý kiến khác, chừng đó hãy trưng ra cái nhìn của bạn.
○ Dạy con cách làm sáng tỏ và chữa lời bằng cách đặt câu: 'Mẹ muốn nói (A) hay (B) ?' và 'Con không hiểu, con tưởng mẹ nói là ...'
○ Giúp con học cách thành thật xin lỗi, khi thích hợp.
○ Tập ở nhà và ở trường cảnh 'đồng ý là hai bên suy nghĩ khác nhau'. Hãy làm
gương cho chủ trương rằng người ta có thể không đồng ý với nhau mà vẫn tiếp tục là bạn của nhau. Đây là điểm quan trọng trong việc dạy thiếu niên cách đối phó với xung đột.
○ Dạy con những cách như ngưng câu chuyện một lát khi có cảm xúc mạnh vì xung đột.
○ Làm gương và tăng cường việc buông bỏ sự tranh chấp khi đã giải quyết xong. Cha mẹ có thể đưa ra hình ảnh là đặt việc tranh chấp vào hộp và cất lên kệ cao. Khi thiếu niên đề cập trở lại chuyện thì nhắc cho con nhớ là sự việc đã 'cất lên kệ'. Mục đích nhắm tới là tập cho con dùng hình ảnh đó để tự dẫn dụ và không cần nói thành lời.
Thiếu niên tự kỷ có thể muốn hay không muốn có tình thân sâu đậm với bạn bè, nhưng cho con vài ý niệm về làm gì hay không làm gì là điều hữu ích.
○ Kỹ năng quan trọng nhất trong tình bạn thân thiết là lắng nghe, tức lắng nghe mà không ngắt lời và kể kinh nghiệm của mình, tìm cách giải quyết hay góp ý. Thiếu niên có thể không biết phải làm gì khi nghe chuyện không vui, khó nghĩ; hãy nhắc nhở rằng con không phải giải quyết bất cứ việc chi. Chỉ cần lắng nghe là đủ.
○ Một trong những cách dạy về việc lắng nghe là cha mẹ hãy làm gương.
○ Bạn thân cũng chấp nhận được sự lặng thinh. Hãy giúp thiếu niên học rằng không phải lúc nào cũng cần phải có lời nói, đôi khi ở cạnh nhau là đủ, cùng làm việc mà hai bên ưa thích.
○ Khi khác có thể bạn bè không có liên lạc nhưng tình thân vẫn còn. Nếu con biết là người bạn bận rộn vì việc nhà, việc học và không có tin trong nhiều ngày, em có thể để lại lời trong máy nhắn câu thăm hỏi, cho biết em quan tâm và mong tin bạn.
Người tự kỷ có khi không muốn có bạn, thấy tình bạn không có lợi chi. Nếu cha mẹ chỉ dẫn mà không mang lại kết quả gì về việc kết bạn, ta không nên chán nản vì mục đích của ta là trang bị cho thiếu niên những kỹ năng làm bạn, con có thể không thích có bạn vào lúc này nhưng các chỉ dẫn cho con ý niệm, và không ai trong chúng ta muốn con bị cô đơn.

Chương Hai: Lên Trung Học


Tổng Quát
I. MỤC ĐÍCH của TRUNG HỌC
II. LÊN TRUNG HỌC
Chọn Chương Trình Học Cho Con
Chuẩn Bị Đổi Trường
Vài Điều Cần Biết
III. VẤN ĐỀ với TRƯỜNG HỌC
Vấn Đề về Cảm Quan
Hành Vi Trục Trặc
Bắt Nạt
IV. CHUẨN BỊ cho TƯƠNG LAI
Thời Gian Chuyển Tiếp sau Trung Học
Tiến Thân Bằng Chữ Nghĩa

Tổng Quát
Cha mẹ có thể gặp một số khó khăn trong lúc con ở bậc trung học, nhưng khi bạn chịu xoay sở, tìm cách giải quyết, học những kỹ năng mới để đối phó thì nhiều phần là bạn thành công. Thí dụ cha mẹ kể rằng nhà trường có thể không nhận ra khả năng của thiếu niên mà bỏ cuộc, cho rằng em không thể học / không chịu học; thế nhưng khi cha mẹ gắng công chỉ dạy thì thầy cô ngạc nhiên với thành quả đạt được. Nó muốn nói sự đóng góp của cha mẹ rất quan trọng để làm con phát triển, bạn cần là người hợp tác tích cực với trường hơn là thụ động giao hết trách nhiệm cho thầy cô.
Trung học là nơi không phải chỉ để học hỏi sách vở, mà còn là cơ hội huấn luyện cho đời sống của người trưởng thành ngoài xã hội sau khi học xong. Muốn cho con thành công thì trường và cha mẹ nên thảo luận xem em cần học điều gì cho bây giờ và cho mai sau; tới năm cuối trung học thì có việc chuyển tiếp từ trường ra đời, vì vậy có việc chuẩn bị cho sự chuyển tiếp này. Thiếu niên bình thường ngoài việc học chữ còn học thêm kỹ năng giao tiếp, sửa soạn y phục, diện mạo nhờ trò chuyện thường ngày với bạn bè; mặt khác điều gì học ở nhà thì em biết tổng quát hóa và áp dụng ở trường, ngoài phố hay ngược lại. Trong khi đó thiếu niên tự kỷ không được khéo léo như vậy, em không tự nhiên học được cách xử thế khi giao tiếp với bạn cùng lứa, mà cũng không biết tổng quát hóa một cách tự nhiên từ môi trường này sang môi trường khác; điều gì cũng phải dạy cho em và dạy nhiều lần. Đối với em có Asperger hoặc khả năng
cao thì có những cách thức để giúp em về các mặt này như ghi rải rác trong sách, với em có khả năng yếu hơn thì cách thức có thể thay đổi cho thích hợp.
Một điểm quan trọng khác là khi con bước vào tuổi thiếu niên rồi tới tuổi trưởng thành, cha mẹ cần nhớ là em nên càng lúc càng đóng góp ý kiến vào việc chuẩn bị để trưởng thành. Giống như thiếu niên bình thường ngày càng được cho tự do làm theo ý mình nhiều hơn, ta cần nhớ cho con khuyết tật được cơ hội như thế, nhất là em nào có khuyết tật nặng. Hãy xem chắc là con được có chọn lựa và cho thiếu niên cơ hội suy nghĩ về tương lai, để chuẩn bị em cho cuộc sống của người lớn.
I. MỤC ĐÍCH của TRUNG HỌC.
Cha mẹ mong đợi gì ở trung học cho con ? Cho thiếu niên bình thường, ngoài việc học để mở mang kiến thức, trang bị cho em có hiểu biết để bước vào xã hội trong tương lai, những năm ở trung học còn huấn luyện cho em được thành công trong đời qua việc luyện các đặc tính như có tinh thần trách nhiệm, cách đối xử với người khác, biết dùng lý trí (common sense), có tinh thần độc lập. Điều này tự nhiên xẩy ra cho các em vì chúng học từ những người xung quanh, có thầy cô chỉ dẫn; với trẻ tự kỷ thì chuyện không diễn ra dễ dàng như vậy mà điều gì cũng phải dạy hoặc giải thích ở mức độ của em, không phải chỉ một lần mà sẽ là vô số lần.
Với đích nhắm là sự thành công mai sau của con, chuyên gia tâm lý ghi ra năm điều kiện cần thiết dẫn tới thành công ấy, và đi kèm với chúng là những đề nghị cha mẹ có thể làm để giúp con từng mặt riêng rẽ.
● Trách nhiệm cá nhân.
Cha mẹ có thể tập cho con ở nhà bằng cách cho thiếu niên càng lúc càng có nhiều trách nhiệm hơn về chính bản thân em, phòng riêng, công việc trong nhà, thí dụ đem rác ra, phơi quần áo, lấy quần áo khô vào xếp lại v.v.; dạy con biết tự chủ và chế ngự hành vi như khi cảm thấy sắp bị kích thích quá độ, sắp mất bình tĩnh thì biết làm gì, có thể làm gì. Đây là một phần quan trọng trong việc học có trách nhiệm riêng. Khi đi trường thì đó là biết đường tới lớp của từng môn, nhận biết các mốc điểm trong khuôn viên trường, làm theo thời khóa biểu, sinh hoạt hằng tuần hay hằng tháng. Bạn có thể giúp con xếp đặt các môn học khác nhau, bài tập phải nộp, bằng cách dùng nhãn mầu đủ loại cho dễ phân biệt. Khi khác thì cha mẹ để con học khôn bằng lỗi lầm của mình, thí dụ mẹ có thể làm sẵn thức ăn trưa nhưng để cho con tự xếp đặt lấy. Có hôm con quên mang theo thì mẹ để y vậy không mang đến trường cho con, cô giải thích rằng thiếu niên sẽ đói bụng hôm ấy nhưng em sẽ học tính chu đáo hơn nhờ kinh nghiệm đó. Những kỹ năng này giúp cho em ở trường, sinh hoạt hằng ngày ở nhà mà cũng hữu ích cho công việc tương lai của em.
● Có sáng kiến và tự quyết định.
Đây là hai đặc tính quan trọng bất kể khả năng của cá nhân cao hay thấp ra sao. Trường và gia đình cần xem sao cho em học được tính quý chuộng chính mình, biết xếp đặt, có cơ hội hành động mang lại hệ quả và học từ những kinh nghiệm này. Khả
năng tự quyết định sẽ dẫn tới việc tự biện hộ cho mình và điều sau cần được phát triển trong tuổi thiếu niên. Áp dụng cho thiếu niên có chứng tự kỷ thì dù có khuyết tật nhiều hay ít, em đều cần học về cách tự biện hộ cho mình bởi rồi sẽ tới lúc em không còn sống chung với ba mẹ, hoặc ba mẹ qua đời không thể bảo bọc con được nữa và em sẽ phải tự bảo vệ mình. Điều quan trọng là tất cả học sinh được chỉ dẫn về những điều này trong tuổi thiếu niên nếu trước đó chưa biết; mà muốn cho một người có thể biện hộ cho nhu cầu của mình thì phải có ý thức về điểm mạnh và điểm yếu của bản thân, cũng như mình khác với đa số người ra sao. Tùy theo khả năng của con mà bạn có thể giúp con có ý thức đó, thí dụ trẻ nào quen dùng hình thì làm bảng vẽ ra mục tiêu của con và những gì cần phải làm để đạt tới mục tiêu có thể có ích, hoặc viết chữ ghi điều gì cần làm hoặc không nên làm; thêm vào đó cũng ghi các ưu điểm của con.
● Biết giao tiếp.
Điều này rất khó cho người có chứng tự kỷ, với em nào có ít khả năng thì ta có thể dạy phép xã giao tối thiểu nhất để có thể tương tác khi đi làm hoặc trò chuyện xã giao. Ai có khả năng hơn thì cần học cách giao tiếp phức tạp hơn để có thể tìm việc hợp với óc thông minh của mình, hoặc có thể theo đuổi việc học ở bậc cao hơn. Nhiều tác giả ghi lại chỗ làm việc khó khăn đối với người tự kỷ chỉ vì không biết các luật giao tiếp, thí dụ như hiểu nghĩa thật (tức ẩn nghĩa thay vì nghĩa đen) của câu nói, diễn giải được ý nghĩa của điệu bộ (nhún vai, khoát tay nóng nẩy), sự thay đổi trên nét mặt (nhướng mắt, nhăn trán). Dầu vậy gia đình và trường vẫn có thể giúp thiếu niên phát triển về mặt này bằng cách xem xét kỹ năng nào cần dạy, kỹ năng nào cần tăng cường, rồi lập chương trình và kiên trì dạy em năm này tháng nọ.
Cần có chương trình vì nó cho phép bạn nhìn được trọn việc phải làm, mục tiêu nhắm tới; chương trình còn chia việc thành những phần nhỏ làm bạn thấy chuyện không nằm ngoài tầm tay của mình mà có thể đạt được, và khi thành công một điểm bạn sẽ có thêm hứng khởi để tiếp tục điểm kế cho đến cuối.
II. LÊN TRUNG HỌC
1. Chọn Chương Trình Học Cho Con.
Cha mẹ nên biết rằng khi con tới tuổi thiếu niên thì trường có khuynh hướng xếp học sinh theo những chương trình khác nhau tùy khả năng học tập của em. Nếu con có khả năng thấp bạn cần quyết định rõ là muốn điều gì cho con:
- Học trường đặc biệt, hay
- Học trường bình thường trong lớp đặc biệt, với vài môn học trong lớp bình thường với bạn bình thường.
Hãy hỏi về những dịch vụ có thể có ở trung học như chỉnh ngôn (speech therapy) và cơ năng trị liệu (occupational therapy) và xem con có còn hội đủ tiêu chuẩn để hưởng các dịch vụ này. Xem chắc là nếu trường quyết định ngưng không có những dịch vụ như trên thì phải có lý do đúng đắn, mà không phải là vì 'lên trung học em không cần trị liệu này nữa'. Bạn nên nhớ kỹ là cha mẹ không bao giờ có thể ngưng biện hộ cho con có sự giáo dục, dịch vụ và hỗ trợ mà em cần, bởi chuyện đơn giản là người khuyết tật học cả đời, luôn luôn tiếp tục học. Não bộ của chúng ta không ngừng tăng trưởng và
tiếp thu thông tin, ai cũng có khả năng ấy và khoa học nhìn nhận tính mềm dẻo dễ uốn nắn ấy của não (neuroplasticity). Do đó chớ tin rằng ta không thể dạy một ai ở bất cứ lứa tuổi nào vì ta có thể làm chuyện đó. Lẽ tự nhiên ta dễ học hơn lúc nhỏ nhưng ta vẫn có thể học được khi lớn hơn, và điều này áp dụng cho con của bạn.
2. Chuẩn Bị Đổi Trường.
Chuyển trường là thời điểm quan trọng cho bất cứ trẻ nào, và cho riêng trẻ tự kỷ thì nó đặc biệt khó khăn. Việc hết sức quan trọng cho thầy cô và gia đình là dùng những cách trợ giúp hữu hiệu để làm giảm mức căng thẳng cho trẻ, và giải quyết nhu cầu học hỏi của em. Ta nên ghi lại trong hồ sơ của em cách nào thành công trong quá khứ để khi sang trường mới nó được áp dụng. Những điểm chính yếu sau cho việc chuyển trường được nhân viên nhà trường ghi nhận, và họ cũng như cha mẹ công nhận là chúng có hiệu quả trong việc chuyển tiếp; chúng thích hợp cho trẻ mẫu giáo cũng như cho học sinh lớp 12 nhưng có thể cần được sửa đổi cho hợp với sở thích, khả năng giao tiếp và cảm quan của em:
- Thông lệ có qui củ
- Sẵn sàng để có thay đổi trong thông lệ.
- Hỗ trợ bằng hình
Thêm vào đó nhân viên nói rằng chương trình tập kỹ năng giao tiếp và liên lạc giữa trường với nhà là điều hết sức quan trọng. Người ta ghi nhận là việc tiếp tục áp dụng ít nhất ba trong số các phương pháp dưới đây cho ra thành công trong việc đổi trường. Sau đây là giải thích về từng cách, cũng như đưa ra vài đề nghị thực tiễn cho việc áp dụng trong lớp học.
● Thông lệ có qui củ.
Thông lệ giúp trẻ tự kỷ hiểu thế giới chung quanh em. Một bảng ghi thông lệ (như thời khóa biểu) có thể được soạn cho học sinh biết những việc làm hằng ngày; nó nên có sinh hoạt mỗi ngày, thầy cô phụ trách và trình tự của sinh hoạt. Bảng thông lệ là cách cụ thể cho trẻ thấy hoạt động trong ngày và giúp trẻ dự đoán được các việc làm là một cách quan trọng để cho em làm chủ được cuộc sống, giảm thiểu bực bội. Bảng khuyến khích em có sự độc lập vì học sinh biết cách tự mình đi sang sinh hoạt kế, nó có thể gồm ít hay nhiều chi tiết tùy theo cần thiết ra sao và gồm có:
- Ai làm gì ?
- Họ làm ở đâu ?
- Họ làm khi nào ?
Bảng có thể dùng cho:
- Một thông lệ
- Một buổi học
- Một buổi sáng
- Trọn một ngày
- Trọn một tuần
Khi mới dạy học sinh dùng bảng, hãy bắt đầu với khoảng thời gian ngắn; khi nói về bảng hãy nhắc thứ tự công chuyện bằng công thức:
Đầu tiên là ..., rồi tới ... (First ... Then ...).
Thí dụ: Đầu tiên làm 10 bài toán, rồi tới đọc sách về xe lửa trong 5 phút.
Bảng cũng có thể cho chọn lựa các sinh hoạt. Điều quan trọng là đọc bảng ngay lúc bắt đầu một buổi học, và nhắc lại thông lệ nếu thấy học sinh tỏ ra lo lắng. Vài em có thể thấy khó mà làm xong thông lệ gồm nhiều bước, nếu vậy hãy viết chỉ dẫn để giúp em hoàn thành những công việc có nhiều bước. Bảng cũng có thể được dùng để giúp em hiểu ý niệm trừu tượng, thí dụ như hành vi thích hợp ở trường như:
- Lắng nghe người khác
- Chờ tới phiên mình
- Chơi một cách thân thiện
- Nói ôn tồn.
● Sẵn sàng để có thay đổi trong thông lệ.
Trường học là chỗ bận rộn và khi trẻ đã học xong thông lệ bình thường nào đó thì lại có thay đổi. Điều này có thể làm trẻ lo lắng. Nhân viên nhà trường có thể làm giảm sự căng thẳng bằng cách chuẩn bị học sinh cho thay đổi sắp có; điều này được thực hiện bằng cách dùng bảng thông lệ và đánh dấu chữ X mầu đỏ, cho biết có thay đổi và ghi chi tiết sinh hoạt mới. Thí dụ:
- Trời mưa, đi thư viện, không ra sân chơi.
● Hỗ trợ bằng hình.
Tại sao dùng hình ? Có quan sát ghi nhận là nhiều người tự kỷ có lợi khi được hỗ trợ bằng hình. Đa số người bình thường nghĩ trong đầu bằng chữ, nhưng cách ấy lạ lùng với người tự kỷ.
Tôi suy nghĩ hoàn toàn bằng hình, giống như cho chạy nhiều cuộn băng video trong óc tưởng tượng của tôi. (Temple Grandin).
Hỗ trợ bằng hình cho ra thành công với trẻ tự kỷ vì hình:
− Khuyến khích sự tương tác giữa bè bạn
− Tăng ý thức, khả năng tự lo thân và độc lập cho học sinh, cho biểu hiệu thấy được về chuyện tự lo thân và độc lập.
− Làm việc chơi chung được dễ dàng hơn.
Ở bậc trung học, thường thường học sinh học trường có đông người hơn, có nhiều thầy cô và lớp khác nhau cho mỗi môn học, điều này đòi hỏi em phải thích ứng với điều kiện học tập mới. Bất kể con bạn học trường đặc biệt hay trường bình thường, việc chuyển từ tiểu học sang trung học với trường ốc mới sẽ cho ra một số thay đổi, và sau đây là vài gợi ý giúp cho việc chuyển tiếp được dễ dàng hơn.
− Khi đã biết em đi trường trung học nào, hãy hỏi xem có những thay đổi, hỗ trợ nào bạn và trường cần làm cho con. Xem chắc là trường và thầy cô có những thông tin rõ ràng về thiếu niên như hành vi, tật về cảm quan nếu có, ngôn ngữ, kỹ năng giao tiếp, khả năng tự lo thân, các môn học giỏi hay kém ra sao.
− Có thể có buổi họp về sự chuyển trường với sự hiện diện của nhân viên cả hai trường và cha mẹ. Tại buổi họp này các hỗ trợ cho trẻ sẽ được thảo luận, cũng như giải pháp được đưa ra như có dàn xếp hay thay đổi để thích nghi với nhu cầu của em. Lấy thí dụ bạn có thể xin cho con học lớp có những bạn bè của em ở tiểu học, đó là những gương mặt em đã quen và điều này có ích cho thiếu niên. Nếu có thay đổi cho hợp với tình trạng của con thì bạn cần biết rõ đó là gì, và ai sẽ phụ trách việc ấy. Hãy nhớ lại điều gì giúp con học tốt đẹp ở tiểu học và dùng đó làm căn bản để thảo luận chuyện ở
trung học. Thí dụ cách con liên lạc là PECS, bảng hình, hoặc em nói được thì trường mới cần biết rõ những điều này; trong trường hợp em học lớp bình thường thì bạn cần biết rõ ai là người em có thể tiếp xúc nếu gặp khó khăn, cũng như chỗ nào em có thể vào để bình tĩnh lại khi cảm quan bị kích thích quá độ.
Lý do trường mới cần biết cách liên lạc quen thuộc của em, khả năng em mạnh / yếu ra sao là vì người tự kỷ khó mà chấp nhận thay đổi, trong khi lên trung học là thay đổi lớn cho thiếu niên; như thế tốt nhất là giữ y cách liên lạc bình thường, đừng tạo nhiều xáo trộn trong lúc này mà chờ khi em ổn định, quen với thầy cô và có bạn khi ấy hãy có thay đổi.
− Dẫn con đến thăm trường mới nhiều bận, đi lại cho quen đường đi từ nhà đến trường. Xin phép cho con vào thăm trường vài ngày trước lúc đi học còn vắng người, để biết trước phòng ốc, đâu là thư viện đâu là phòng ăn, toilet, chỉ cho biết đâu là phòng con sẽ học, những mốc dễ nhớ, cách đi từ lớp này sang lớp kia theo thời khóa biểu trong tuần. Có hình chụp những nơi này càng tốt hơn nữa, để bạn cùng con xem lại ở nhà, dán hình lên tờ giấy lớn và vẽ đường đi tới các nơi này cho con rõ.
Nếu ở gần thì ôn với con nhiều lần cho quen, giải thích cho em hay về niên học mới. Đây là sự chuẩn bị thong thả, cho em học cách tự mình biết đi lại trong trường, thông thạo các ngõ ngách lúc chưa có đám đông và cảnh ồn ào huyên náo; về phần cha mẹ thì bạn có cơ hội chỉ con từng chuyện một, có thì giờ không bị vội vã như về sau lúc bắt đầu đi học.
− Chuẩn bị sớm cho con, giảm bớt sự căng thẳng do khung cảnh xa lạ gây ta. Nếu được thì xin cho con gặp thầy cô mới, hoặc xin hình và tên của thầy cô mới sẽ dạy con và nhân viên mà con sẽ tiếp xúc. Mang hình về nhà ghi tên thầy cô ở cuối hình, cho con xem để quen mặt quen tên.
− Dùng lịch cho con đếm khi nào tới ngày đi học hay ngày dọn nhà. Trẻ thấy trước việc gì sắp xẩy ra sẽ bớt lo lắng, không bị dồn nén cảm xúc và không bị căng thẳng.
3. Vài Điều Cần Biết
Sau đây là đề nghị vài điều ở trung học mà thiếu niên tự kỷ cần thành thạo:
● Đi xe bus.
Theo cách này cha mẹ cần giải thích cho con rõ:
- Chỗ đợi xe bus
- Dùng thẻ đi xe bus hoặc có đúng số tiền để mua vé xe.
- Giờ xe đến
- Có đủ giờ để ra tới chỗ đón xe
- Đi gặp ai khi có vấn đề
- Làm gì nếu xe bus không tới
- Lúc đi xe về thì xuống chỗ nào
Học sinh cũng cần được giúp để đối phó với chuyện dọc đường trên xe bus, như tiếng ồn, chòng ghẹo v.v. Tốt hơn là đi thử xe một lần trước khi nhập học, rồi trong vài ngày đầu có người mà em biết đi cùng với em thì rất có ích.
● Bản đồ trường.
Nên cho em một bản đồ, có càng nhiều chi tiết càng hay, ghi số phòng và có mô tả. Em cần học để nhận biết những mốc điểm trong trường được dùng để mô tả địa điểm.
Thí dụ phòng A13 là phòng học giờ toán, ở đầu cầu thang gần thư viện. Dành thì giờ để đi quanh trường cũng là chuyện hay, cho em học biết những nơi quan trọng như toilet, thư viện, phòng ăn v.v.
● Thời biểu.
Đây là một trong những phần phức tạp nhất của sinh hoạt ở trung học mà thiếu niên phải làm quen, nhất là khi trường dùng thời biểu cho hai tuần thay vì một tuần. Ở tiểu học, học sinh chỉ có một thầy cô và thường là học trong một lớp mỗi ngày; lên trung học em có nhiều thầy cô và nhiều lớp thay đổi. Để giản dị hóa thời biểu, ta có thể dùng những cách sau:
- Dùng hình thay cho chữ, thí dụ môn Địa Lý thì có hình quả địa cầu
- Dùng mầu khác nhau cho mỗi môn học
- Viết trọn tên thầy cô
- Dùng mặt đồng hồ để chỉ giờ thay vì viết số hoặc viết Giờ 1 v.v.
- Ghi số phòng và có mô tả
- Cha mẹ nên có bảng thời biểu đặt ở nơi dễ thấy trong nhà.
● Tủ Cá Nhân (Locker)
Học sinh cần:
- Biết tủ ở đâu (cũng dùng mốc điểm để tìm).
- Hỏi xem trường có chìa khóa phụ, và phải làm gì khi không có chìa.
- Gài chìa khóa vào dây lưng quần, hay vào ví có tiền ăn trưa.
● Sổ Ghi.
Sổ bài tập nên có dán bản đồ trường và một bảng thời biểu. Chương trình TEACCH đề nghị có chỉ dẫn giản dị và rõ ràng, thí dụ chỉ dẫn về 'Phải làm gì nếu em mất tiền mua thức ăn trưa ?' có thể giúp làm em bớt căng thẳng. Nếu học sinh rất bực dọc khi trời mưa lúc ra chơi, trong sổ có vài chỉ dẫn giản dị viết sẵn sẽ cho nhân viên trường biết phải làm gì để giúp em. Cũng nên dùng sổ này để thông báo cho cha mẹ và học sinh về chuyện gì sắp tới hoặc có thay đổi về thời biểu. Nếu có thể được thì người trợ giáo (teacher aide) trong lớp nên kiểm lại là chi tiết của bài cho về nhà được ghi đầy đủ, và nhân viên cũng nên ghi vào sổ khi có thư cho học sinh mang về nhà.
● Thêm Trách Nhiệm.
Ở trung học, học sinh có trách nhiệm hoàn toàn về túi bút, sách vở, dụng cụ của em v.v., vì vậy dùng bảng kiểm kê có thể rất hữu ích, bảng có thể ghi trong sổ bài tập. Có học sinh không sắp xếp được sách vở, dụng cụ, tủ cá nhân, và kết cục là đi học mà không có đủ học cụ và sách, hoặc khệ nệ mang tới lui cả chồng sách. Khi có vấn đề này thì nên cất sách trong một hộc ở nhà, và mỗi tối cha mẹ có thể giúp con soạn ra sách nào cần cho ngày mai.
● Ăn trưa và Ra chơi.
Học sinh cần biết:
- Đi đâu / cách xếp hàng / ngồi ở đâu
- Có những nhóm nào họp trong giờ ăn
- Phải đi đâu để có giúp đỡ.
- Giờ ra chơi và ăn trưa có thể là vấn đề vì không có qui củ, có tiếng ồn và người ta di chuyển luôn. Trường có thể giao việc cho em làm, nhưng điều quan trọng là công việc không nên cho cảm tưởng đó là phạt, thí dụ như lượm rác. Bắt nạt cũng là vấn đề, và nhiều học sinh thấy dùng phòng yên lặng làm chỗ nghỉ ngơi là chuyện có lợi. Ta cần phân biệt giữ môi trường có qui củ và môi trường có kiểm soát vì người ta thường lẫn lộn hai cái, nhất là khi học sinh có hành vi trục trặc. Khi đó nói về môi trường 'qui củ' là có nghĩa môi trường có kiểm soát chặt chẽ với những luật được theo sát. Ngược lại, trẻ AS cần môi trường qui củ, hàm ý có trật tự mà không phải có kiểm soát.
III. VẤN ĐỀ với TRƯỜNG HỌC.
Một cuộc thăm dò gần đây thấy rằng gần phân nửa phụ huynh có con tự kỷ nói họ gặp trục trặc với hệ thống giáo dục. Cha mẹ cho là thầy cô lớp bình thường mà có trẻ tự kỷ hay Asperger học chung, không biết cách hướng dẫn em, một phần vì họ không được huấn luyện và phần khác là họ không hiểu biết về bệnh. Trường cần thông cảm với sự khó khăn mà cha mẹ trẻ tự kỷ gặp phải, đổi lại cha mẹ cũng cần nhớ là thầy cô phải gắng sức rất nhiều để giúp trẻ tự kỷ hội nhập vào lớp bình thường. Cách tốt nhất để hai bên hiểu nhau là gặp gỡ, trao đổi ý kiến để đánh tan ngộ nhận, bên này hiểu bên kia nghĩ sao và chữa lại hiểu lầm. Cha mẹ cũng nên chuẩn bị là sẽ gặp những cha mẹ khác không muốn có trẻ tự kỷ trong lớp của con họ, vì thầy cô phải bỏ nhiều thì giờ lo cho trẻ tự kỷ và không thể chú ý đến học sinh khác; hoặc họ không muốn con chơi với trẻ tự kỷ để con không bắt chước tật của trẻ, vì trẻ tự kỷ không 'bình thường'.
Vậy chuyện bạn có thể làm là khiến trường, thầy cô, học sinh trong lớp ý thức về tình trạng của con; hãy giúp thầy cô bằng cách soạn một hay hai trang giấy về những đặc điểm cần chú ý của con, tật hay gặp cùng cách đối phó ở nhà, cho họ biết vài điều như:
− Trẻ tự kỷ yếu kém về mặt giao tế, không có kỹ năng tương tác, không hiểu qui luật xã giao và không biết mình phải theo những qui luật đó.
− Thầy cô cần nói chỉ dẫn rõ ràng, kiểm lại là em hiểu nó và biết mình phải làm gì. Nên bắt đầu bằng tên em, nếu không em có thể không biết là thầy cô đang nói với mình. Kế đó thầy cô có thể nghĩ là điểm chính của bài học thật hiển nhiên, dầu vậy không chừng trẻ lại chú tâm vào một điều khác hẳn.
− Trẻ tự kỷ hay thích chuyện gì quen thuộc và không muốn đổi sang chuyện xa lạ em chưa biết.
− Buổi họp toàn trường có thể gây khó khăn cho trẻ tự kỷ, vì có đông người trong phòng họp, khung cảnh ồn ào; nếu được thì xin cho con ngồi ở bìa cho thoải mái hơn, thay vì giữa hàng ghế, và nếu có bạn ngồi cạnh để trông chừng thì càng tốt. Dùng máy tính giờ (timer) để giúp em có ý niệm về thời gian, giải thích buổi họp sẽ kéo dài bao lâu.
− Quan sát thấy rằng giờ ra chơi gây nhiều khó khăn cho trẻ tự kỷ vì nó không có thứ tự, khuôn khổ trong khi trẻ rất cần trật tự, sắp xếp rõ ràng. Khi em không biết chắc
phải làm gì, em có thể có hành vi không thích hợp hoặc tách xa bạn bè và bị cô lập. Để tránh chuyện này bạn có thể khuyến khích con gia nhập một nhóm họp lúc ra chơi, thí dụ nhóm chơi cờ (chess), nhóm điện toán v.v. ; hỏi xem con có thể ngồi trong thư viện; nếu con thích ngồi một mình thì tìm xem trường có chỗ thích hợp cho em. Nếu con muốn dự trò chơi với các bạn mà không biết cách, hãy dạy con vài câu mở lời sao cho bạn không nghĩ là em mát dây, ngớ ngẩn.
− Giờ ăn trưa là thời điểm khó khăn nữa và em cần có phương thức đối phó để giảm bớt căng thẳng. Bạn có thể cho nhân viên phòng ăn biết về đặc điểm của con và xếp đặt sẵn cho trẻ.
− Khi đưa con tới trường, tìm cách thả con xuống cùng một chỗ mỗi ngày, và khi đón thì cũng nên xếp đặt để đón y chỗ mỗi buổi. Có sẵn nước uống và món ăn chơi khi tới đón sau giờ học, giúp con xả hơi; và khi về nhà thì có chỗ dành riêng cho con xả căng thẳng.
− Chót hết, ngày nào có trục trặc làm trẻ bối rối, lo lắng như mất đồ chơi quen thuộc, áo ưa thích chưa giặt và không được mặc hôm nay thí dụ vậy, bạn cần cho thầy cô biết ngay từ đầu để hiểu và nhân nhượng với thay đổi về hành vi ở lớp. Không được báo trước thì thầy cô ngỡ ngàng với sự đổi tánh, và ai nấy đều bực bội không vui, cả lớp cũng như con bạn.
● Vấn Đề về Cảm Quan.
Đa số học sinh tự kỷ bị trục trặc về cảm quan, muốn cho em thành công ở trường thì điều quan hệ là học sinh không cảm thấy bị rối loạn nhiều về cảm quan, và bậc trung học là lúc thiếu niên cần bắt đầu học cách nhận biết khi nào mình bị ảnh hưởng do các tật về cảm quan, như cảm thấy khó chịu, bối rối, nóng nẩy. Các em có thể học cách diễn đạt để báo động cho người chung quanh hay là em phải rời khung cảnh làm em bất an, hoặc học cách phản ứng thích hợp. Đó có thể rất giản dị như là tấm thẻ em đưa cho thầy cô ghi lý do em muốn rời lớp và nhờ giúp đỡ, việc có thể tỏ ý cho người khác hay về vấn đề mà cảm quan gây ra là bước đầu tiên dẫn đến việc học cách đối phó với chúng.
Chuyên viên về cơ năng trị liệu (occupational therapist) được huấn luyện về hòa hợp cảm quan, và có kinh nghiệm với những vấn đề của tuổi thiếu niên, môi trường của bậc trung học sẽ có thể chỉ dạy học sinh những sinh hoạt hữu ích về cảm quan, giúp cho em không bị xáo trộn quá đáng. Vấn đề có thể liên hệ đến ánh sáng, âm thanh, mùi hương v.v. nên cha mẹ cần chú ý để xác định rồi hoặc tự giải quyết, hoặc trình bầy với trường để gia đình và trường hợp tác đối phó. Một thí dụ của sự hợp tác là cho em ngồi nơi thuận tiện trong lớp không bị nắng chói, đèn thay bóng để ánh sáng không làm em nhức mắt và đau đầu nếu đó là vấn đề; về phần gia đình thì cha mẹ có thể cho con luyện thính giác để quen với các loại âm thanh khác nhau, giúp cho em không còn gặp khó khăn với một số âm thanh trong môi trường hằng ngày. Tại những nước tây phương cha mẹ có thể liên lạc với hội về chứng tự kỷ để xin chi tiết nơi trị liệu bằng âm thanh. Nói chung thì ta cần tìm sự quân bình giữa việc làm giảm sự nhậy cảm nơi người tự kỷ và việc tập thích ứng với khung cảnh họ sinh sống. Sau đây là vài thí dụ:
○ Nếu có âm thanh gây cho em khó chịu thì bạn có thể cho em dùng nút bịt tai (earplug), nó hữu ích trong việc giảm sự nhậy cảm với âm thanh; điều lưu tâm là đặt nút bịt tai sao cho em vẫn nghe được người khác nói chuyện với em để không làm ngơ khi thầy cô gọi và em cần trả lời, hoặc nghe tiếng chuông reo đổi giờ học. Khi cần tập trung tư tưởng làm bài em có thể được phép đeo headphone nghe nhạc vặn nhỏ, cách này có sự hữu ích của nó nhưng không nên kéo dài, vì mục tiêu nhắm tới là tập làm giảm sự nhậy cảm và ta chỉ đạt tới điều ấy khi ở trong môi trường có tiếng ồn mà không phải nhờ xa lánh nó. Mặt khác, thiếu niên cần quen với tiếng động trong cuộc sống hàng ngày thay vì cô lập mình, bởi đó là thực tế và ta thay đổi mình cho quen thì dễ hơn là đòi hỏi khung cảnh thay đổi cho hợp ý ta.
○ Đối với ánh sáng, nếu bị chói mắt em có thể xin phép được mang kính mầu trong lớp; khi khác thì đội mũ có vành de ra sẽ giúp chặn ánh sáng nhấp nháy của đèn huỳnh quang. Cha mẹ nên cẩn thận trong việc trị liệu về sự nhậy cảm của mắt. Thị giác là cảm quan hết sức mỏng manh lẫn vô giá, cần được bảo vệ rất kỹ để tránh rủi ro có hại; nó có nghĩa khi muốn có trị liệu về thị giác cha mẹ cần biết phương pháp có căn bản khoa học ra sao, hỏi xem sách vở hay tài liệu nào hỗ trợ cho trị liệu, yêu cầu được đọc các bài này và xem chắc là có ai đã được chữa thành công hay có cải thiện đáng kể nhờ trị liệu. Bạn cần phải có chứng cớ rõ ràng trước khi đóng tiền cho con chữa bệnh, để tránh việc tiền mất tật mang hoặc tệ hơn nữa là mắt bị ảnh hưởng do trị liệu sai lầm.
○ Sang xúc giác nếu thiếu niên bị khó chịu khi có đụng chạm thì những ai chung quanh em hằng ngày cần biết là em không muốn bị đụng chạm. Người tự kỷ có khi thích có cảm giác về áp lực sâu, nếu con bạn ưa thích như vậy thì một giải pháp là cho em đeo túi đeo lưng nặng, túi đeo vai, hoặc may túi lót bên trong áo len, áo khoác có chứa vật nặng để tạo áp lực. Em khác có thể muốn lúc nào cũng có cảm giác nhai, bạn hãy dặn con luôn luôn mang kẹo cao su trong túi.
○ Em nào nhậy cảm về mùi thì cho em mang khăn tay có tẩm mùi ưa thích để em có thể ngửi mùi này, khi khung cảnh có những mùi khác làm em thấy ngộp. Với em không biết nói thì vấn đề có thể trở nên trầm trọng, nhưng may mắn là cách giải quyết lại rất giản dị, chỉ cần bạn tinh ý một chút; thí dụ có em đang ngoan nay bỗng trở chứng la hét. Người ta truy được nguyên nhân là tật bắt đầu có khi cô giáo thay đổi nước hoa, học sinh không chịu được mùi của nước hoa mới nên đâm ra náo động trong lớp, việc học hóa ra chậm lại.
● Hành Vi Trục Trặc.
Như đã có trình bầy trong các sách về tự kỷ, hành vi là một hình thức liên lạc tỏ ý, và có thể có nhiều lý do khác nhau cho cùng một hành vi mà do nhiều người làm. Ở trường, khi hành vi của thiếu niên trở thành mối quan tâm lớn thì học sinh có thể được thẩm định, để tìm nguyên do, hệ quả và cách đối phó. Nó xét tới những gì xẩy ra trước khi có hành vi, hành vi thực sự và hệ quả của hành vi. Dụng ý của việc thẩm định là để có hiểu biết rõ hơn về hành vi và các yếu tố chi phối nó; chuyên viên giỏi dang khi phân tích hành vi có thể ấn định rõ ràng những lực gì nằm sau và thúc đẩy nó. Xin đọc thêm chương bốn về cách giải quyết một số hành vi.
● Bắt Nạt.
Đây là vấn đề lớn cho cha mẹ, chẳng những việc bắt nạt xẩy ra tại nhiều trường mà người tự kỷ và Asperger còn là nạn nhân tuyệt hảo. Bắt nạt diễn ra dưới nhiều hình thức, bằng lời nói trêu chọc, khiêu khích cho đến việc dùng vũ lực; bởi nó sinh ra ảnh hưởng nặng nề cho nạn nhân, trường và cha mẹ cần hợp lực ngăn ngừa và có biện pháp đối phó. Người tự kỷ dễ bị bắt nạt vì không thể suy ra ý người khác dựa vào thái độ và hành vi dễ đoán; có khi thiếu niên bị nhắm tới mà khi khác thì em ngay tình vướng vào hoàn cảnh không an toàn và vào lúc này, bắt nạt có thể diễn ra ở trường lẫn trên internet và điện thoại di động.
Em bị tấn công còn do cách xử sự, điệu bộ khác người, không hòa với chúng bạn. Trong khi những học sinh khác muốn tỏ ra độc lập bằng cách phá luật nào có thể phá ở trường thì thiếu niên tự kỷ răm rắm tuân theo luật, và có thể phản đối lớn tiếng trong lớp khi có ai phá luật, do đó em không được các bạn ưa chuộng. Lý do khác làm em bị ăn hiếp còn là vì giọng nói, y phục, đầu tóc của học sinh gây hiểu lầm cho người khác. Người tự kỷ thường có giọng đơn điệu không thay đổi, không biết ăn nói cho hợp với người đối diện (nói với bạn bè cùng tuổi hoặc thầy cô đều cùng một cách thức) nên ai tiếp xúc dễ có cảm tưởng sai lạc là em thô lỗ, trịch thượng, chế nhạo họ.
Tật của chứng tự kỷ còn gây ấn tượng bất lợi cho thiếu niên, thí dụ em không nhìn vào mắt, giọng phẳng lì, đứng nhúc nhích không yên làm người khác tin là em có điều muốn che dấu, không thật lòng. Em không có ý niệm về tôn ti, kính nể người có thẩm quyền nên mạnh dạn sửa lỗi thầy cô, gây phật ý. Chuyện hóa tệ hơn cho trẻ Asperger nào giỏi ăn nói, em thao thao khiến mọi người tin rằng em hiểu biết nhiều, hiểu ý họ nên khó tha thứ khi em tỏ ra không hiểu nghĩa bóng, không cư xử theo luật bất thành văn trong lúc giao tiếp.
Ngoài việc gặp nhiều rủi ro hơn trẻ khác về chuyện bị bắt nạt, trẻ tự kỷ còn có thể không nói được cho bạn nghe chuyện gì xẩy tới cho em. Khi khác trẻ tự kỷ muốn được hòa vào nhóm và sẽ làm những gì mà kẻ bắt nạt đòi hỏi, thường khi đó là những việc có thể gây hại cho trẻ, hoặc làm em bị rắc rối với nhà trường, thí dụ em gái cởi y phục trong sân chơi. Trẻ tự kỷ còn là mục tiêu dễ nhắm trong sân trường vì các em hay chơi một mình, không có ai hỗ trợ chung quanh.
Cha mẹ cần cho con và trường hay rằng bắt nạt là điều không thể được khoan thứ, và dàn xếp với trường để có một nhân viên mà thiếu niên có thể tiếp xúc để được giúp đỡ, khi em cảm thấy không an toàn. Trong gia đình cha mẹ có thể dạy con có lòng tự tin, biết giá trị của mình; từ ý niệm này em sẽ cảm thấy bị xúc phạm khi có bắt nạt, và mạnh dạn phản đối hoặc kể lại chuyện cho thầy cô hay cha mẹ biết để mau lẹ đối phó. Tới đây bạn thấy việc dạy con biết tự biện hộ, lên tiếng bảo vệ quyền lợi của mình có ứng dụng tốt đẹp ra sao.
○ Bắt nạt là sao.
Bắt nạt được định nghĩa là:
- Cố ý gây tổn thương tình cảm hoặc thể chất,
- Sự việc tái đi tái lại trong một khoảng thời gian, và
- Nạn nhân khó mà bảo vệ mình với việc ấy.
Bắt nạt chia làm ba loại:
- Thể chất, như đánh, đá, lấy đi đồ vật.
- Lời nói như gọi tên bậy bạ, xúc phạm, phê bình chọc giận.
- Gián tiếp như tung lời đồn đãi, nói chuyện xấu về nạn nhân, tẩy chay không cho nhập vào nhóm bạn bè, gửi email hoặc gửi text có ác ý bằng điện thoại di động.
Ngoài việc bắt nạt trong trường, nay những cách liên lạc mới như internet và điện thoại di động cho phép kẻ bắt nạt trêu chọc người ta bằng những cách khác và ngoài giờ học. Nó có nghĩa sau khi tan trường, học sinh vẫn có thể bị chọc phá vào buổi tối và luôn cả cuối tuần. Bắt nạt lối mới gồm có việc gửi text bằng điện thoại di động, emails, chuyện gẫu trên internet (chat forums), các trang web. Kẻ bắt nạt có thể khuyến khích bạn cùng lớp gửi cho nhau những lời gây tổn thương cho một em nào. Cách khác là dùng điện thoại di động chụp hình, quay video người bị đánh hoặc bị chọc phá rồi gửi đi cho bạn bè xem.
Thường thường, 1/3 nạn nhân bị bắt nạt không hề cho ai hay. Trẻ có khuyết tật dễ bị bắt nạt gấp ba lần trẻ bình thường, mà một số em cũng dễ chính mình thành kẻ bắt nạt người khác. Chót hết, bắt nạt xảy ra ở trường bình thường lẫn trường đặc biệt.
○ Dấu hiệu.
Khó khăn cho cha mẹ là không dễ biết con mình bị bắt nạt hay không, nhất là khi trẻ không biết nói, hoặc không nghĩ mình bị bắt nạt để cho cha mẹ hay. Chẳng hạn có trẻ được bạn đổi hai đồng 25 xu để lấy đồng cắc một đồng. Hai đổi lấy một nhưng là 50 xu đổi được một đồng, và trẻ tự kỷ nghĩ mình có bạn tốt. Vậy bạn cần tìm những dấu hiệu khác để xem con có thể bị bắt nạt khi nghi ngờ. Chúng có thể là:
- Đi học về với quần áo dơ, rách hoặc mất y phục, túi đeo lưng, sách vở, tay chân trầy trụa, bầm,
- Không có tiền mà đáng lẽ em phải có, hoặc hỏi xin thêm tiền cho ngày mai.
- Tới trường hay về nhà trễ vì phải đổi đường tới trường hoặc về nhà.
- Tránh né không muốn đi học, nại cớ để nghỉ học.
- Tỏ ra bị căng thẳng, rầu rĩ, không vui hoặc không khoẻ.
- Sức chú ý bị giảm, hoặc thầy cô cho hay tiêu chuẩn bài làm của em xuống thấp hơn.
- Trẻ tự kỷ có thể có thay đổi đột ngột về hành vi do bị bắt nạt ở trường, như lo lắng nhiều hơn, bị khó ngủ nhiều hơn và nổi xung ở nhà. Em còn có thể bắt chước kẻ bắt nạt trong cách đối xử với anh chị em ở nhà, bắt nạt anh chị em vì không hiểu hành vi như vậy không chấp nhận được. Em chỉ nghĩ mình làm điều gì mà bạn bè đã làm.
○ Ảnh hưởng.
Ảnh hưởng lâu dài của việc bắt nạt có thể nghiêm trọng. Nghiên cứu nói là trẻ bị bắt nạt có thể thấy không an toàn trong một thời gian dài, có vấn đề với hành vi, lòng tự tin sút giảm, và sức chú ý kém. Em có thể không muốn giao tiếp vì sợ bị bắt nạt, cũng như có thể mắc bệnh liên quan đến việc bị căng thẳng. Một số về sau có thể mắc bệnh tâm thần. Ở nhà, cha mẹ có thể cần phải nuôi dưỡng lòng tự tin của con. Hãy khen những bài đặc biệt nào của con ở trường, cho con thấy là chứng tự kỷ làm con giỏi về mặt này hay kia. Kể chuyện những ai tự kỷ mà thành đạt như cô Temple Grandin.
Nếu con bạn là kẻ bắt nạt thì hãy nghĩ xem con làm vậy để muốn nói điều chi. Muốn được chú ý chăng ? Muốn được nhận vào nhóm chúng bạn ? Hoặc không biết là mình gây tổn thương cho người khác ? Có ai xúi giục em không ?
Tập kỹ năng giao tiếp cho em có thể là điều lợi, em có thể cần được chỉ cách mời bạn chơi với mình, hoặc dạy con làm chuyện khác nếu thấy bực bội. Chẳng hạn em không đánh người ta mà đi tìm ai tin cậy và đưa thẻ có viết trên đó cho họ xem để nhờ giúp, đây là cách áp dụng cho em nào không nói giỏi hoặc không biết nói, hoặc em có thể đá banh.
○ Cách Đối Phó.
− Tránh kẻ bắt nạt.
Hãy dạy con là khi không cảm thấy an toàn thì em nên tìm cách ở gần hoặc trong một nhóm học sinh khác, là bạn của em hay không. Cách khác là nhờ bạn của mình hoặc ai mà em tin cậy trông chừng em. Đừng tìm cách đánh trả, vì đánh nhau có thể làm em gặp rắc rối, hoặc em có thể bị thương. Khi gặp một hoặc nhiều kẻ bắt nạt và không thể tránh ngay thì em có cách là tìm một bạn hay người trong nhà để cùng tập cách trả lời câu chọc phá mà kẻ bắt nạt có thể nói với em. Thí du:
Kẻ bắt nạt: Giầy anh xấu quá.
Học sinh: Đó là anh nghĩ thôi. Giầy tôi thoải mái lắm.
Tập những câu này và viết ra giấy. Kẻ bắt nạt có thể nói những điều về hình dạng bề ngoài của em, gia đình hoặc những gì mà em thích làm. Em có thể viết
- Em nói như vầy khi người ta nói về hình dạng của em …
- Em nói như vầy khi người ta nói về gia đình em ...
Nếu em cảm thấy sợ hãi thì đó là chuyện tự nhiên. Ai cũng thấy sợ. Điều quan trọng là em được chỉ cách làm gì khi nghĩ là mình sợ và muốn tránh xa cảnh bị bắt nạt. Cha mẹ có thể dạy con nhận biết nét mặt và cử chỉ, ánh mắt của kẻ bắt nạt lẫn của em.
− Dạy con biết cách tìm sự giúp đỡ.
Nếu chuyện xẩy ra ngoài đường thì em có thể đến thư viện, trung tâm sinh hoạt cộng đồng, phòng chơi (leisure centre) hoặc những nơi khác mà cha mẹ có thể chỉ cho con, vì những nơi này thường có nhiều người trong đó, dù họ biết em hay không. Vào đó thì em không còn đơn độc và có thể nhờ người lớn trợ giúp.
− Đừng làm ngơ việc bị bắt nạt, vì chuyện tự nó sẽ không biến mất khi em không làm gì. Chuyện còn có thể hóa tệ hơn nếu em làm ngơ nó. Em không có lỗi gì khi bị bắt nạt, và không ai đáng phải bị đối xử như vậy. Hãy nói cho người khác biết, vì chuyện sẽ không chấm dứt khi không có ai khác hay. Nếu em không thể nói thì có thể viết ra giấy và đưa cho cha mẹ hoặc ai khác xem, như ông bà, thầy cô, nhân viên ở trường.
− Khi nhận được text qua điện thoại di động, hoặc email ác ý, hoặc điều gì viết về mình trên internet, em có thể vào trang web sau để học cách đối phó: cybermentors.org.uk. Còn khi dùng internet, em cần theo một số luật để được an toàn.
IV. CHUẨN BỊ cho TƯƠNG LAI.
Cha mẹ cần can dự vào việc chuẩn bị để bảo đảm là sẽ có chương trình chuyển tiếp hợp với nguyện vọng của con; về phần thiếu niên em cần nói lên mơ ước của mình, điều em ưa thích và giỏi dang lẫn điều không thích và yếu kém, và có cuộc hội ý tất cả những ai liên hệ đến việc chuẩn bị cho em ra đời sau trung học. Điều thiếu niên phải đối đầu là vừa phải học các điều cần biết của bậc trung học, mà cũng phải học những kỹ năng cần thiết cho tương lai, cho việc chuyển bước sang thế giới của người trưởng thành. Dù em sẽ vào đại học, đi làm, sống độc lập hay ở trong nhà tập thể, em cần chuẩn bị trong những năm trung học cho mọi hoàn cảnh của cuộc sống thường ngày. Trung học là lúc cho ta xem xét các hy vọng tương lai của em, và trang bị cho em khả năng để thực hiện chúng.
Ngày nay cha mẹ ý thức nhiều hơn về chứng tự kỷ, nên có khuynh hướng nỗ lực mạnh mẽ để giúp con sống đời tốt đẹp hơn, so với cuộc sống của người khuyết tật thuộc thế hệ trước. Trong lúc đó trường học không theo kịp cách suy nghĩ này, và không chuẩn bị cho đa số học sinh tự kỷ về việc ra đời sau trung học, bất kể là em chọn đường hướng nào là học lên cao, đi làm, ra riêng hoặc sống chung trong nhà tập thể. Cha mẹ và học sinh được cho biết rất ít chọn lựa về tương lai, có trường hợp không được cho biết tất cả những đường hướng em có thể chọn, và nhân viên hữu trách chỉ trình bầy điều gì hợp cho chính phủ, thay vì điều gì có lợi cho thiếu niên lẫn xã hội về lâu về dài.
Thí dụ thầy cô nói rằng em có khả năng học nghề ở trường TAFE (tại Úc) với ý là học xong thì em đi làm, nhưng họ không nói thêm là số người tự kỷ hay Asperger tìm được việc làm so ra rất thấp so với người bình thường (69% không có việc làm tại Hoa Kỳ, 85% tại Anh), dù người tự kỷ nói rằng họ làm việc giỏi dang và chăm chỉ. Khi học xong mà không có việc làm thì em sẽ ngồi nhà nhìn bốn bức tường 24 tiếng một ngày ư ? Đó là lý do cha mẹ cần biết nhiều thông tin, các thiếu sót của hệ thống trợ giúp người khuyết tật, và quyền lợi của con để trang bị khi nói chuyện với nhân viên chính phủ, nhà trường trong cuộc họp bàn chương trình học cho em. Điều quan trọng là cha mẹ và thiếu niên có cái nhìn thực tế, biết những gì sẽ gặp, thực trạng chờ đợi em khi học xong, có sáng kiến và nghĩ tới những điều gì có thể làm được cho em.
Một cách chuẩn bị cho việc đi làm khi học xong là em tập đi làm trong lúc ở bậc trung học, hoặc có lương hoặc làm thiện nguyện dựa theo điều em ưa thích. Nếu ưa thích thú vật em có thể xin làm trong cửa hàng bán thú cưng (pet) hoặc ngay cả sở thú, cho em nào có mơ ước học ngành thú y. Cha mẹ giúp được con bằng cách tìm chủ nhân nào cần tài năng đặc biệt cho thương nghiệp của họ, như cần người biết về thảo chương điện toán (programer), biết vẽ, trang trí, làm trang web v.v., tức những tài năng mà thiếu niên có. Đây cũng có thể là bước đầu cho thiếu niên tập loại công việc tự mình làm chủ, dẫn tới hành nghề tự do mai kia.
Để quảng cáo và trưng ra tài năng của mình thì thiếu niên có thể làm trang web trên internet, hoặc soạn một tập gồm những tài liệu mẫu (portfolio) cho chủ nhân xem. Thời gian ở trung học còn có thể được dùng để luyện kỹ năng cho thêm tinh xảo, giúp em tìm việc dễ dàng hơn. Điều hiển nhiên là muốn thành công trong công việc thì người ta nên chọn ngành thuộc khả năng của mình; mà như vậy cũng chưa đủ vì biết kềm chế sự lo lắng, làm chủ tính khí và có kỹ năng giao tiếp là những điều cần yếu ngang với kỹ năng.
● Thời Gian Chuyển Tiếp sau Trung Học.
Điều hiển nhiên là tùy theo khả năng của con mà bạn lập chương trình cho tương lai, nếu xét thấy con có thể theo đường học vấn thì đại học là đích nhắm, còn nếu có dự tính cho em đi làm thì nên nhìn vào sinh hoạt của cộng đồng để lấy ý. Thiếu niên cần tỏ ý về tương lai của mình; với người tự kỷ biết nói rành rọt thì em biết nói lên mình muốn gì cho tương lai; ai không biết nói thì cần cho em phương tiện để tỏ ý.
Về việc làm nếu không tìm ra điều gì như mong muốn thì có lẽ bạn cần phải hội ý với toán ở trường lo về chuyển tiếp cho học sinh. Lấy thí dụ cha mẹ nghĩ rằng phụ việc ở thư viện hợp với con nhưng thư việc không dự tính mướn nhân viên lúc này; thay vào đó khi được cha mẹ cho biết ý định, toán hỗ trợ của nhà trường đề nghị việc khác là cho thiếu niên tập việc ở nhà trẻ vì em tỏ ra thích trẻ nhỏ. Cha mẹ thuận theo và sau
một thời gian học việc rồi tập sự, nhà trẻ cho hay em làm được việc và họ rất sẵn lòng nhận em vào làm. Câu chuyện cho bài học là cha mẹ cần uyển chuyển, sẵn sàng đổi thái độ và niềm tin khi thấy làm vậy thuận tiện cho con.
Trường hợp khác thì có thể cha mẹ phải tìm tòi và tạo cơ hội cho con làm việc, khi không có sẵn cơ hội ấy ở chung quanh. Thí dụ đưa ra là có em lúc nhỏ thích tháo đồng hồ, máy móc rời ra hết và sau đó ráp lại dễ dàng. Cha mẹ nhận biết khả năng này nên lúc con trưởng thành, giúp con mở thương nghiệp nhỏ là lắp ráp và sửa xe đạp, như vậy khi cha mẹ xông xáo không quản khó nhọc thì con tự kỷ có khả năng thấp vẫn có thể sống đời ý nghĩa, có việc làm hợp với em. Chuyện quan trọng ở đây là chính cha mẹ phải tạo ra cơ hội mà không thể mong nhờ vào ai khác.
Đề nghị đưa ra là nếu bạn thấy có việc hợp với ước muốn và sở thích của con thì tìm hiểu xem thiếu niên cần có những kỹ năng chi, phải có hỗ trợ gì để thành công trong môi trường đó. Sự việc nhấn mạnh thêm điều ta đã nhắc tới đôi lần ở trên, là sự thành công của việc làm trong tương lai tùy thuộc vào việc phát triển khả năng và sở thích của em ở bậc trung học.
Giống như mọi ai khác, thiếu niên sẽ vui vẻ sung sướng khi làm điều mà em thích thú mà chắc chắn bạn muốn con sống hạnh phúc, vậy hãy xem có những cách nào giúp em tìm được việc làm ưa thích; hoặc hay hơn nữa bạn tạo cơ hội cho con có việc làm nếu không thấy có việc gì hợp với con. Thường thường với người tự kỷ khả năng thấp thì cha mẹ cần nỗ lực nhiều hơn để tìm việc cho con. Ngay cả khi ta chưa biết em sẽ làm được việc gì, ta vẫn phải dạy thiếu niên những kỹ năng cần thiết cho mọi nghề như biết xếp đặt, có óc tổ chức, ngăn nắp v.v. Khi không được cho cơ hội phát triển tài năng hoặc luyện tập để có kỹ năng cần thiết, có hỗ trợ đúng cách để thành công trong việc làm, đa số người tự kỷ hay Asperger khó có được việc làm và có việc nhưng không sử dụng được hết khả năng của mình.
Chót hết thì điều cần nhớ ở đây là đối xử với con tự kỷ của bạn y như là với con bình thường về mặt tìm việc, có nghĩa:
○ Quan tâm đến tài năng, năng khiếu, mơ ước của thiếu niên.
Em thích làm điều gì, em làm điều gì giỏi ? Người biết nói thì có thể cho cha mẹ, thày cô hay còn với ai không thể diễn tả ý nghĩ rõ ràng hoặc là không biết nói thì cha mẹ cần quan sát kỹ hơn, và hỏi thăm ý kiến của thầy cô, những ai tiếp xúc với thiếu niên và biết rõ về em như bạn bè.
○ Tìm người làm gương cho con noi theo. Thiếu niên bình thường có những gương thành công ngoài đời khiến em ngưỡng mộ thì thiếu niên tự kỷ cũng có những người cho em bắt chước; có nhiều sách do người tự kỷ viết, ghi lại kinh nghiệm làm việc của họ, bạn nên tìm đọc để có thông tin thực dụng, biết họ đã chuẩn bị ra sao và công việc đòi hỏi chuyện chi, cùng điều gì hữu ích trong việc chuẩn bị đi làm. Sau đây là vài điểm nêu ra trong các sách này:
− Nhiều người bình thường không thích việc làm của mình nhưng họ làm vì lợi nhuận, tức động cơ thúc đẩy là lợi nhuận. Với người tự kỷ thì lợi nhuận có khi không phải là động cơ mạnh gợi hứng cho họ, và bởi họ cần phải thích loại công việc mà họ
làm vậy thì chuyện đặc biệt quan trọng là tìm loại công việc thích hợp cho chính cá nhân.
− Ghi một bảng những điều ưa thích và không thích, ưu điểm và điểm yếu cũng như là điều gì quan trọng cho họ trong môi trường làm việc, thí dụ có ít tiếng ồn, không có ánh sáng chói. Các chi tiết này có thể hữu ích khi xem xét những việc họ có thể làm hoặc thích hợp cho họ. Các câu hỏi nên đặt ra là: Tôi được độc lập tới mức nào ? Nếu tôi cần giúp đỡ thì có được trợ giúp không ? Tôi phải làm bao lâu thì được nghỉ xả hơi ?
− Người tự kỷ đóng góp gì được cho thương nghiệp. Nếu muốn giúp con tìm việc thì bạn phải biết tâm lý của chủ nhân, trình bầy lợi ích của việc mướn người tự kỷ mới mong họ xét đơn thuận lợi.
− Kỹ năng giao tiếp. Cho dù kỹ năng này không quan trọng để làm được việc, nhưng nó lại quan trọng để người ta giữ được việc lâu dài vì có nhận xét rằng việc làm không phải chỉ là việc làm, mà còn là đối xử với người khác. Chỗ làm khác nhau có thể đòi hỏi kỹ năng giao tiếp khác nhau, nhưng nói chung có một số kỹ năng căn bản mà mỗi ai đi làm, là nhân viên đều nên biết. Thí dụ ai cũng phải tìm hiểu để biết người nào giúp được mình và cách hỏi xin trợ giúp, tức không phải mỗi năm phút là gọi họ hoặc muốn hỏi lúc họ đang nhận điện thoại.
− Chỉ dẫn cho bạn cùng chỗ làm. Đôi khi những bạn cùng làm với người tự kỷ cần
được cho biết vài điều về họ để hiểu những tật của người này và thích nghi với chúng. Thí dụ nói 'Ảnh cần 30 giây để trả lời vì suy nghĩ chậm, xếp đặt tư tưởng không được mau lẹ' sẽ khiến người chung quanh thông cảm và tỏ ra kiên nhẫn hơn.
Sự hợp tác của người chung quanh rất cần cho sự thành công của người tự kỷ, kinh nghiệm nói rằng nếu ta có thể dạy được kỹ năng thì dạy họ. Nếu không thể dạy thì thích nghi nó với khung cảnh, tìm cách khác để làm. Và nếu không tìm ra cách khác thay thế thì dạy người chung quanh cách đối phó.
− Tự làm chủ. Ngoài ba cách làm việc chính nêu ra trong quiển Tự Kỷ và Trị Liệu cho người khuyết tật nói chung, một cách khác nữa là hành nghề tự do hay tự làm chủ mà ai có khả năng nhiều hay ít đều cũng có thể làm được. Thường thường đó là việc làm dựa trên năng khiếu khéo léo, kỹ xảo riêng biệt của một người; họ có thể tự mình làm được hết việc mà cũng có khi chỉ làm được một phần nào, và phải giao phần họ không thể làm cho người khác hoàn tất.
Cách dàn xếp này cho cá nhân cơ hội làm điều mà họ thích làm, không bị gò bó trong hệ thống hay khuôn khổ, hoặc bị giới hạn vì môi trường không có sẵn hoạt động thích hợp cho họ, và nó cũng cho họ nhiều kiểm soát hơn về khung cảnh chung quanh.
● Tiến Thân Bằng Chữ Nghĩa.
Nhiều người tự kỷ khả năng cao thành đạt bằng đường học vấn, một số theo đuổi môn mà họ ham mê như toán, điện toán, nhạc. Bởi có nhiều ngành học, điều quan trọng ở đây cũng giống như trên là tìm ngành hợp với sở thích và khả năng của người tự kỷ. Sách vở cho ra một số nhận xét đáng nói, mô tả sự khác biệt giữa bậc trung học và đại học như khác biệt giữa chuyện đi phi cơ thương mại và tự mình lái phi cơ riêng. Ở
trung học, học sinh được cha mẹ và cộng đồng chung quanh hỗ trợ với cha mẹ là người cầm lái vận mạng cho em; khi vào đại học thì người tự kỷ phải điều khiển phi cơ của mình. Những khác biệt được kê ra là:
○ Ở bậc trung học, trọn cộng đồng nhận biết em. Thầy cô quen với của thiếu niên, quen biết gia đình và ngay cả anh chị em của em theo học cùng trường trước hay sau em vài năm; họ biết học sinh thuộc về khu trong vùng. Ngược lại trên đại học, giáo sư và nhân viên không biết gia đình em là ai, từ đâu tới, và có đông sinh viên đông giáo sư hơn; đại học thường rộng lớn hơn trung học.
○ Thời khóa biểu trên đại học khác với trung học, sự thay đổi có thể khó cho người tự kỷ nhất là khi sinh viên rời nhà ra thành phố trọ học hoặc ở trong ký túc xá. Họ sẽ có bạn cùng phòng và cần có kỹ năng tự lo thân để sống độc lập. Sinh viên còn phải có thể sinh hoạt theo thời biểu trong tuần, hoặc nửa năm học. Chẳng những kỹ năng giao tiếp cần thiết để việc sống chung diễn ra suông sẻ, mà nó cũng rất thiết yếu khi nói chuyện với văn phòng, giáo sư. Nhân viên đại học và giáo sư có thể không quen thuộc với chứng tự kỷ và thấy lạ lùng với cách ăn nói của họ; người tự kỷ có thể không diễn tả được hết ý mình hoặc làm người khác hiểu được nhu cầu của mình, và hệ quả là không được trợ giúp như ý hoặc đạt được điều mong muốn.
Về điểm này, trường đại học và trường TAFE tại Úc có những dịch vụ hỗ trợ rất hữu ích cho người khuyết tật mà cha mẹ và người tự kỷ nên biết để sử dụng. Mặc dầu vậy, vẫn có những người không biết đến nhu cầu đặc biệt của sinh viên, thế nên dưới đây là những gợi ý để giúp việc học được dễ dàng hơn:
○ Đưa ra thông tin về chứng tự kỷ cho những ai mà sinh viên cần phải tiếp xúc, cho biết cách nó ảnh hưởng sinh viên, khó khăn mà anh phải đương đầu và cách thức nào có thể giúp anh. Đây là lúc mà kỹ năng tự biện hộ sẽ giúp ích cho chính sinh viên, và không nên ngần ngại cho biết rằng mình có chứng tự kỷ để được giúp đỡ.
○ Cách thức đã dùng ở trung học cũng dùng lại được ở đại học, như viết ra thời biểu, ghi ra bảng điều cần nhớ hoặc cần làm, dùng hình, biểu đồ, video đều có ích. Đây là kỹ năng cho cả đời mà không phải chỉ cho một giai đoạn, vì thế nó đáng công cho bạn dành thì giờ dạy con.
Ta sẽ đề cập chi tiết những điều này trong chương tám.