Chương Hai: Lên Trung Học


Tổng Quát
I. MỤC ĐÍCH của TRUNG HỌC
II. LÊN TRUNG HỌC
Chọn Chương Trình Học Cho Con
Chuẩn Bị Đổi Trường
Vài Điều Cần Biết
III. VẤN ĐỀ với TRƯỜNG HỌC
Vấn Đề về Cảm Quan
Hành Vi Trục Trặc
Bắt Nạt
IV. CHUẨN BỊ cho TƯƠNG LAI
Thời Gian Chuyển Tiếp sau Trung Học
Tiến Thân Bằng Chữ Nghĩa

Tổng Quát
Cha mẹ có thể gặp một số khó khăn trong lúc con ở bậc trung học, nhưng khi bạn chịu xoay sở, tìm cách giải quyết, học những kỹ năng mới để đối phó thì nhiều phần là bạn thành công. Thí dụ cha mẹ kể rằng nhà trường có thể không nhận ra khả năng của thiếu niên mà bỏ cuộc, cho rằng em không thể học / không chịu học; thế nhưng khi cha mẹ gắng công chỉ dạy thì thầy cô ngạc nhiên với thành quả đạt được. Nó muốn nói sự đóng góp của cha mẹ rất quan trọng để làm con phát triển, bạn cần là người hợp tác tích cực với trường hơn là thụ động giao hết trách nhiệm cho thầy cô.
Trung học là nơi không phải chỉ để học hỏi sách vở, mà còn là cơ hội huấn luyện cho đời sống của người trưởng thành ngoài xã hội sau khi học xong. Muốn cho con thành công thì trường và cha mẹ nên thảo luận xem em cần học điều gì cho bây giờ và cho mai sau; tới năm cuối trung học thì có việc chuyển tiếp từ trường ra đời, vì vậy có việc chuẩn bị cho sự chuyển tiếp này. Thiếu niên bình thường ngoài việc học chữ còn học thêm kỹ năng giao tiếp, sửa soạn y phục, diện mạo nhờ trò chuyện thường ngày với bạn bè; mặt khác điều gì học ở nhà thì em biết tổng quát hóa và áp dụng ở trường, ngoài phố hay ngược lại. Trong khi đó thiếu niên tự kỷ không được khéo léo như vậy, em không tự nhiên học được cách xử thế khi giao tiếp với bạn cùng lứa, mà cũng không biết tổng quát hóa một cách tự nhiên từ môi trường này sang môi trường khác; điều gì cũng phải dạy cho em và dạy nhiều lần. Đối với em có Asperger hoặc khả năng
cao thì có những cách thức để giúp em về các mặt này như ghi rải rác trong sách, với em có khả năng yếu hơn thì cách thức có thể thay đổi cho thích hợp.
Một điểm quan trọng khác là khi con bước vào tuổi thiếu niên rồi tới tuổi trưởng thành, cha mẹ cần nhớ là em nên càng lúc càng đóng góp ý kiến vào việc chuẩn bị để trưởng thành. Giống như thiếu niên bình thường ngày càng được cho tự do làm theo ý mình nhiều hơn, ta cần nhớ cho con khuyết tật được cơ hội như thế, nhất là em nào có khuyết tật nặng. Hãy xem chắc là con được có chọn lựa và cho thiếu niên cơ hội suy nghĩ về tương lai, để chuẩn bị em cho cuộc sống của người lớn.
I. MỤC ĐÍCH của TRUNG HỌC.
Cha mẹ mong đợi gì ở trung học cho con ? Cho thiếu niên bình thường, ngoài việc học để mở mang kiến thức, trang bị cho em có hiểu biết để bước vào xã hội trong tương lai, những năm ở trung học còn huấn luyện cho em được thành công trong đời qua việc luyện các đặc tính như có tinh thần trách nhiệm, cách đối xử với người khác, biết dùng lý trí (common sense), có tinh thần độc lập. Điều này tự nhiên xẩy ra cho các em vì chúng học từ những người xung quanh, có thầy cô chỉ dẫn; với trẻ tự kỷ thì chuyện không diễn ra dễ dàng như vậy mà điều gì cũng phải dạy hoặc giải thích ở mức độ của em, không phải chỉ một lần mà sẽ là vô số lần.
Với đích nhắm là sự thành công mai sau của con, chuyên gia tâm lý ghi ra năm điều kiện cần thiết dẫn tới thành công ấy, và đi kèm với chúng là những đề nghị cha mẹ có thể làm để giúp con từng mặt riêng rẽ.
● Trách nhiệm cá nhân.
Cha mẹ có thể tập cho con ở nhà bằng cách cho thiếu niên càng lúc càng có nhiều trách nhiệm hơn về chính bản thân em, phòng riêng, công việc trong nhà, thí dụ đem rác ra, phơi quần áo, lấy quần áo khô vào xếp lại v.v.; dạy con biết tự chủ và chế ngự hành vi như khi cảm thấy sắp bị kích thích quá độ, sắp mất bình tĩnh thì biết làm gì, có thể làm gì. Đây là một phần quan trọng trong việc học có trách nhiệm riêng. Khi đi trường thì đó là biết đường tới lớp của từng môn, nhận biết các mốc điểm trong khuôn viên trường, làm theo thời khóa biểu, sinh hoạt hằng tuần hay hằng tháng. Bạn có thể giúp con xếp đặt các môn học khác nhau, bài tập phải nộp, bằng cách dùng nhãn mầu đủ loại cho dễ phân biệt. Khi khác thì cha mẹ để con học khôn bằng lỗi lầm của mình, thí dụ mẹ có thể làm sẵn thức ăn trưa nhưng để cho con tự xếp đặt lấy. Có hôm con quên mang theo thì mẹ để y vậy không mang đến trường cho con, cô giải thích rằng thiếu niên sẽ đói bụng hôm ấy nhưng em sẽ học tính chu đáo hơn nhờ kinh nghiệm đó. Những kỹ năng này giúp cho em ở trường, sinh hoạt hằng ngày ở nhà mà cũng hữu ích cho công việc tương lai của em.
● Có sáng kiến và tự quyết định.
Đây là hai đặc tính quan trọng bất kể khả năng của cá nhân cao hay thấp ra sao. Trường và gia đình cần xem sao cho em học được tính quý chuộng chính mình, biết xếp đặt, có cơ hội hành động mang lại hệ quả và học từ những kinh nghiệm này. Khả
năng tự quyết định sẽ dẫn tới việc tự biện hộ cho mình và điều sau cần được phát triển trong tuổi thiếu niên. Áp dụng cho thiếu niên có chứng tự kỷ thì dù có khuyết tật nhiều hay ít, em đều cần học về cách tự biện hộ cho mình bởi rồi sẽ tới lúc em không còn sống chung với ba mẹ, hoặc ba mẹ qua đời không thể bảo bọc con được nữa và em sẽ phải tự bảo vệ mình. Điều quan trọng là tất cả học sinh được chỉ dẫn về những điều này trong tuổi thiếu niên nếu trước đó chưa biết; mà muốn cho một người có thể biện hộ cho nhu cầu của mình thì phải có ý thức về điểm mạnh và điểm yếu của bản thân, cũng như mình khác với đa số người ra sao. Tùy theo khả năng của con mà bạn có thể giúp con có ý thức đó, thí dụ trẻ nào quen dùng hình thì làm bảng vẽ ra mục tiêu của con và những gì cần phải làm để đạt tới mục tiêu có thể có ích, hoặc viết chữ ghi điều gì cần làm hoặc không nên làm; thêm vào đó cũng ghi các ưu điểm của con.
● Biết giao tiếp.
Điều này rất khó cho người có chứng tự kỷ, với em nào có ít khả năng thì ta có thể dạy phép xã giao tối thiểu nhất để có thể tương tác khi đi làm hoặc trò chuyện xã giao. Ai có khả năng hơn thì cần học cách giao tiếp phức tạp hơn để có thể tìm việc hợp với óc thông minh của mình, hoặc có thể theo đuổi việc học ở bậc cao hơn. Nhiều tác giả ghi lại chỗ làm việc khó khăn đối với người tự kỷ chỉ vì không biết các luật giao tiếp, thí dụ như hiểu nghĩa thật (tức ẩn nghĩa thay vì nghĩa đen) của câu nói, diễn giải được ý nghĩa của điệu bộ (nhún vai, khoát tay nóng nẩy), sự thay đổi trên nét mặt (nhướng mắt, nhăn trán). Dầu vậy gia đình và trường vẫn có thể giúp thiếu niên phát triển về mặt này bằng cách xem xét kỹ năng nào cần dạy, kỹ năng nào cần tăng cường, rồi lập chương trình và kiên trì dạy em năm này tháng nọ.
Cần có chương trình vì nó cho phép bạn nhìn được trọn việc phải làm, mục tiêu nhắm tới; chương trình còn chia việc thành những phần nhỏ làm bạn thấy chuyện không nằm ngoài tầm tay của mình mà có thể đạt được, và khi thành công một điểm bạn sẽ có thêm hứng khởi để tiếp tục điểm kế cho đến cuối.
II. LÊN TRUNG HỌC
1. Chọn Chương Trình Học Cho Con.
Cha mẹ nên biết rằng khi con tới tuổi thiếu niên thì trường có khuynh hướng xếp học sinh theo những chương trình khác nhau tùy khả năng học tập của em. Nếu con có khả năng thấp bạn cần quyết định rõ là muốn điều gì cho con:
- Học trường đặc biệt, hay
- Học trường bình thường trong lớp đặc biệt, với vài môn học trong lớp bình thường với bạn bình thường.
Hãy hỏi về những dịch vụ có thể có ở trung học như chỉnh ngôn (speech therapy) và cơ năng trị liệu (occupational therapy) và xem con có còn hội đủ tiêu chuẩn để hưởng các dịch vụ này. Xem chắc là nếu trường quyết định ngưng không có những dịch vụ như trên thì phải có lý do đúng đắn, mà không phải là vì 'lên trung học em không cần trị liệu này nữa'. Bạn nên nhớ kỹ là cha mẹ không bao giờ có thể ngưng biện hộ cho con có sự giáo dục, dịch vụ và hỗ trợ mà em cần, bởi chuyện đơn giản là người khuyết tật học cả đời, luôn luôn tiếp tục học. Não bộ của chúng ta không ngừng tăng trưởng và
tiếp thu thông tin, ai cũng có khả năng ấy và khoa học nhìn nhận tính mềm dẻo dễ uốn nắn ấy của não (neuroplasticity). Do đó chớ tin rằng ta không thể dạy một ai ở bất cứ lứa tuổi nào vì ta có thể làm chuyện đó. Lẽ tự nhiên ta dễ học hơn lúc nhỏ nhưng ta vẫn có thể học được khi lớn hơn, và điều này áp dụng cho con của bạn.
2. Chuẩn Bị Đổi Trường.
Chuyển trường là thời điểm quan trọng cho bất cứ trẻ nào, và cho riêng trẻ tự kỷ thì nó đặc biệt khó khăn. Việc hết sức quan trọng cho thầy cô và gia đình là dùng những cách trợ giúp hữu hiệu để làm giảm mức căng thẳng cho trẻ, và giải quyết nhu cầu học hỏi của em. Ta nên ghi lại trong hồ sơ của em cách nào thành công trong quá khứ để khi sang trường mới nó được áp dụng. Những điểm chính yếu sau cho việc chuyển trường được nhân viên nhà trường ghi nhận, và họ cũng như cha mẹ công nhận là chúng có hiệu quả trong việc chuyển tiếp; chúng thích hợp cho trẻ mẫu giáo cũng như cho học sinh lớp 12 nhưng có thể cần được sửa đổi cho hợp với sở thích, khả năng giao tiếp và cảm quan của em:
- Thông lệ có qui củ
- Sẵn sàng để có thay đổi trong thông lệ.
- Hỗ trợ bằng hình
Thêm vào đó nhân viên nói rằng chương trình tập kỹ năng giao tiếp và liên lạc giữa trường với nhà là điều hết sức quan trọng. Người ta ghi nhận là việc tiếp tục áp dụng ít nhất ba trong số các phương pháp dưới đây cho ra thành công trong việc đổi trường. Sau đây là giải thích về từng cách, cũng như đưa ra vài đề nghị thực tiễn cho việc áp dụng trong lớp học.
● Thông lệ có qui củ.
Thông lệ giúp trẻ tự kỷ hiểu thế giới chung quanh em. Một bảng ghi thông lệ (như thời khóa biểu) có thể được soạn cho học sinh biết những việc làm hằng ngày; nó nên có sinh hoạt mỗi ngày, thầy cô phụ trách và trình tự của sinh hoạt. Bảng thông lệ là cách cụ thể cho trẻ thấy hoạt động trong ngày và giúp trẻ dự đoán được các việc làm là một cách quan trọng để cho em làm chủ được cuộc sống, giảm thiểu bực bội. Bảng khuyến khích em có sự độc lập vì học sinh biết cách tự mình đi sang sinh hoạt kế, nó có thể gồm ít hay nhiều chi tiết tùy theo cần thiết ra sao và gồm có:
- Ai làm gì ?
- Họ làm ở đâu ?
- Họ làm khi nào ?
Bảng có thể dùng cho:
- Một thông lệ
- Một buổi học
- Một buổi sáng
- Trọn một ngày
- Trọn một tuần
Khi mới dạy học sinh dùng bảng, hãy bắt đầu với khoảng thời gian ngắn; khi nói về bảng hãy nhắc thứ tự công chuyện bằng công thức:
Đầu tiên là ..., rồi tới ... (First ... Then ...).
Thí dụ: Đầu tiên làm 10 bài toán, rồi tới đọc sách về xe lửa trong 5 phút.
Bảng cũng có thể cho chọn lựa các sinh hoạt. Điều quan trọng là đọc bảng ngay lúc bắt đầu một buổi học, và nhắc lại thông lệ nếu thấy học sinh tỏ ra lo lắng. Vài em có thể thấy khó mà làm xong thông lệ gồm nhiều bước, nếu vậy hãy viết chỉ dẫn để giúp em hoàn thành những công việc có nhiều bước. Bảng cũng có thể được dùng để giúp em hiểu ý niệm trừu tượng, thí dụ như hành vi thích hợp ở trường như:
- Lắng nghe người khác
- Chờ tới phiên mình
- Chơi một cách thân thiện
- Nói ôn tồn.
● Sẵn sàng để có thay đổi trong thông lệ.
Trường học là chỗ bận rộn và khi trẻ đã học xong thông lệ bình thường nào đó thì lại có thay đổi. Điều này có thể làm trẻ lo lắng. Nhân viên nhà trường có thể làm giảm sự căng thẳng bằng cách chuẩn bị học sinh cho thay đổi sắp có; điều này được thực hiện bằng cách dùng bảng thông lệ và đánh dấu chữ X mầu đỏ, cho biết có thay đổi và ghi chi tiết sinh hoạt mới. Thí dụ:
- Trời mưa, đi thư viện, không ra sân chơi.
● Hỗ trợ bằng hình.
Tại sao dùng hình ? Có quan sát ghi nhận là nhiều người tự kỷ có lợi khi được hỗ trợ bằng hình. Đa số người bình thường nghĩ trong đầu bằng chữ, nhưng cách ấy lạ lùng với người tự kỷ.
Tôi suy nghĩ hoàn toàn bằng hình, giống như cho chạy nhiều cuộn băng video trong óc tưởng tượng của tôi. (Temple Grandin).
Hỗ trợ bằng hình cho ra thành công với trẻ tự kỷ vì hình:
− Khuyến khích sự tương tác giữa bè bạn
− Tăng ý thức, khả năng tự lo thân và độc lập cho học sinh, cho biểu hiệu thấy được về chuyện tự lo thân và độc lập.
− Làm việc chơi chung được dễ dàng hơn.
Ở bậc trung học, thường thường học sinh học trường có đông người hơn, có nhiều thầy cô và lớp khác nhau cho mỗi môn học, điều này đòi hỏi em phải thích ứng với điều kiện học tập mới. Bất kể con bạn học trường đặc biệt hay trường bình thường, việc chuyển từ tiểu học sang trung học với trường ốc mới sẽ cho ra một số thay đổi, và sau đây là vài gợi ý giúp cho việc chuyển tiếp được dễ dàng hơn.
− Khi đã biết em đi trường trung học nào, hãy hỏi xem có những thay đổi, hỗ trợ nào bạn và trường cần làm cho con. Xem chắc là trường và thầy cô có những thông tin rõ ràng về thiếu niên như hành vi, tật về cảm quan nếu có, ngôn ngữ, kỹ năng giao tiếp, khả năng tự lo thân, các môn học giỏi hay kém ra sao.
− Có thể có buổi họp về sự chuyển trường với sự hiện diện của nhân viên cả hai trường và cha mẹ. Tại buổi họp này các hỗ trợ cho trẻ sẽ được thảo luận, cũng như giải pháp được đưa ra như có dàn xếp hay thay đổi để thích nghi với nhu cầu của em. Lấy thí dụ bạn có thể xin cho con học lớp có những bạn bè của em ở tiểu học, đó là những gương mặt em đã quen và điều này có ích cho thiếu niên. Nếu có thay đổi cho hợp với tình trạng của con thì bạn cần biết rõ đó là gì, và ai sẽ phụ trách việc ấy. Hãy nhớ lại điều gì giúp con học tốt đẹp ở tiểu học và dùng đó làm căn bản để thảo luận chuyện ở
trung học. Thí dụ cách con liên lạc là PECS, bảng hình, hoặc em nói được thì trường mới cần biết rõ những điều này; trong trường hợp em học lớp bình thường thì bạn cần biết rõ ai là người em có thể tiếp xúc nếu gặp khó khăn, cũng như chỗ nào em có thể vào để bình tĩnh lại khi cảm quan bị kích thích quá độ.
Lý do trường mới cần biết cách liên lạc quen thuộc của em, khả năng em mạnh / yếu ra sao là vì người tự kỷ khó mà chấp nhận thay đổi, trong khi lên trung học là thay đổi lớn cho thiếu niên; như thế tốt nhất là giữ y cách liên lạc bình thường, đừng tạo nhiều xáo trộn trong lúc này mà chờ khi em ổn định, quen với thầy cô và có bạn khi ấy hãy có thay đổi.
− Dẫn con đến thăm trường mới nhiều bận, đi lại cho quen đường đi từ nhà đến trường. Xin phép cho con vào thăm trường vài ngày trước lúc đi học còn vắng người, để biết trước phòng ốc, đâu là thư viện đâu là phòng ăn, toilet, chỉ cho biết đâu là phòng con sẽ học, những mốc dễ nhớ, cách đi từ lớp này sang lớp kia theo thời khóa biểu trong tuần. Có hình chụp những nơi này càng tốt hơn nữa, để bạn cùng con xem lại ở nhà, dán hình lên tờ giấy lớn và vẽ đường đi tới các nơi này cho con rõ.
Nếu ở gần thì ôn với con nhiều lần cho quen, giải thích cho em hay về niên học mới. Đây là sự chuẩn bị thong thả, cho em học cách tự mình biết đi lại trong trường, thông thạo các ngõ ngách lúc chưa có đám đông và cảnh ồn ào huyên náo; về phần cha mẹ thì bạn có cơ hội chỉ con từng chuyện một, có thì giờ không bị vội vã như về sau lúc bắt đầu đi học.
− Chuẩn bị sớm cho con, giảm bớt sự căng thẳng do khung cảnh xa lạ gây ta. Nếu được thì xin cho con gặp thầy cô mới, hoặc xin hình và tên của thầy cô mới sẽ dạy con và nhân viên mà con sẽ tiếp xúc. Mang hình về nhà ghi tên thầy cô ở cuối hình, cho con xem để quen mặt quen tên.
− Dùng lịch cho con đếm khi nào tới ngày đi học hay ngày dọn nhà. Trẻ thấy trước việc gì sắp xẩy ra sẽ bớt lo lắng, không bị dồn nén cảm xúc và không bị căng thẳng.
3. Vài Điều Cần Biết
Sau đây là đề nghị vài điều ở trung học mà thiếu niên tự kỷ cần thành thạo:
● Đi xe bus.
Theo cách này cha mẹ cần giải thích cho con rõ:
- Chỗ đợi xe bus
- Dùng thẻ đi xe bus hoặc có đúng số tiền để mua vé xe.
- Giờ xe đến
- Có đủ giờ để ra tới chỗ đón xe
- Đi gặp ai khi có vấn đề
- Làm gì nếu xe bus không tới
- Lúc đi xe về thì xuống chỗ nào
Học sinh cũng cần được giúp để đối phó với chuyện dọc đường trên xe bus, như tiếng ồn, chòng ghẹo v.v. Tốt hơn là đi thử xe một lần trước khi nhập học, rồi trong vài ngày đầu có người mà em biết đi cùng với em thì rất có ích.
● Bản đồ trường.
Nên cho em một bản đồ, có càng nhiều chi tiết càng hay, ghi số phòng và có mô tả. Em cần học để nhận biết những mốc điểm trong trường được dùng để mô tả địa điểm.
Thí dụ phòng A13 là phòng học giờ toán, ở đầu cầu thang gần thư viện. Dành thì giờ để đi quanh trường cũng là chuyện hay, cho em học biết những nơi quan trọng như toilet, thư viện, phòng ăn v.v.
● Thời biểu.
Đây là một trong những phần phức tạp nhất của sinh hoạt ở trung học mà thiếu niên phải làm quen, nhất là khi trường dùng thời biểu cho hai tuần thay vì một tuần. Ở tiểu học, học sinh chỉ có một thầy cô và thường là học trong một lớp mỗi ngày; lên trung học em có nhiều thầy cô và nhiều lớp thay đổi. Để giản dị hóa thời biểu, ta có thể dùng những cách sau:
- Dùng hình thay cho chữ, thí dụ môn Địa Lý thì có hình quả địa cầu
- Dùng mầu khác nhau cho mỗi môn học
- Viết trọn tên thầy cô
- Dùng mặt đồng hồ để chỉ giờ thay vì viết số hoặc viết Giờ 1 v.v.
- Ghi số phòng và có mô tả
- Cha mẹ nên có bảng thời biểu đặt ở nơi dễ thấy trong nhà.
● Tủ Cá Nhân (Locker)
Học sinh cần:
- Biết tủ ở đâu (cũng dùng mốc điểm để tìm).
- Hỏi xem trường có chìa khóa phụ, và phải làm gì khi không có chìa.
- Gài chìa khóa vào dây lưng quần, hay vào ví có tiền ăn trưa.
● Sổ Ghi.
Sổ bài tập nên có dán bản đồ trường và một bảng thời biểu. Chương trình TEACCH đề nghị có chỉ dẫn giản dị và rõ ràng, thí dụ chỉ dẫn về 'Phải làm gì nếu em mất tiền mua thức ăn trưa ?' có thể giúp làm em bớt căng thẳng. Nếu học sinh rất bực dọc khi trời mưa lúc ra chơi, trong sổ có vài chỉ dẫn giản dị viết sẵn sẽ cho nhân viên trường biết phải làm gì để giúp em. Cũng nên dùng sổ này để thông báo cho cha mẹ và học sinh về chuyện gì sắp tới hoặc có thay đổi về thời biểu. Nếu có thể được thì người trợ giáo (teacher aide) trong lớp nên kiểm lại là chi tiết của bài cho về nhà được ghi đầy đủ, và nhân viên cũng nên ghi vào sổ khi có thư cho học sinh mang về nhà.
● Thêm Trách Nhiệm.
Ở trung học, học sinh có trách nhiệm hoàn toàn về túi bút, sách vở, dụng cụ của em v.v., vì vậy dùng bảng kiểm kê có thể rất hữu ích, bảng có thể ghi trong sổ bài tập. Có học sinh không sắp xếp được sách vở, dụng cụ, tủ cá nhân, và kết cục là đi học mà không có đủ học cụ và sách, hoặc khệ nệ mang tới lui cả chồng sách. Khi có vấn đề này thì nên cất sách trong một hộc ở nhà, và mỗi tối cha mẹ có thể giúp con soạn ra sách nào cần cho ngày mai.
● Ăn trưa và Ra chơi.
Học sinh cần biết:
- Đi đâu / cách xếp hàng / ngồi ở đâu
- Có những nhóm nào họp trong giờ ăn
- Phải đi đâu để có giúp đỡ.
- Giờ ra chơi và ăn trưa có thể là vấn đề vì không có qui củ, có tiếng ồn và người ta di chuyển luôn. Trường có thể giao việc cho em làm, nhưng điều quan trọng là công việc không nên cho cảm tưởng đó là phạt, thí dụ như lượm rác. Bắt nạt cũng là vấn đề, và nhiều học sinh thấy dùng phòng yên lặng làm chỗ nghỉ ngơi là chuyện có lợi. Ta cần phân biệt giữ môi trường có qui củ và môi trường có kiểm soát vì người ta thường lẫn lộn hai cái, nhất là khi học sinh có hành vi trục trặc. Khi đó nói về môi trường 'qui củ' là có nghĩa môi trường có kiểm soát chặt chẽ với những luật được theo sát. Ngược lại, trẻ AS cần môi trường qui củ, hàm ý có trật tự mà không phải có kiểm soát.
III. VẤN ĐỀ với TRƯỜNG HỌC.
Một cuộc thăm dò gần đây thấy rằng gần phân nửa phụ huynh có con tự kỷ nói họ gặp trục trặc với hệ thống giáo dục. Cha mẹ cho là thầy cô lớp bình thường mà có trẻ tự kỷ hay Asperger học chung, không biết cách hướng dẫn em, một phần vì họ không được huấn luyện và phần khác là họ không hiểu biết về bệnh. Trường cần thông cảm với sự khó khăn mà cha mẹ trẻ tự kỷ gặp phải, đổi lại cha mẹ cũng cần nhớ là thầy cô phải gắng sức rất nhiều để giúp trẻ tự kỷ hội nhập vào lớp bình thường. Cách tốt nhất để hai bên hiểu nhau là gặp gỡ, trao đổi ý kiến để đánh tan ngộ nhận, bên này hiểu bên kia nghĩ sao và chữa lại hiểu lầm. Cha mẹ cũng nên chuẩn bị là sẽ gặp những cha mẹ khác không muốn có trẻ tự kỷ trong lớp của con họ, vì thầy cô phải bỏ nhiều thì giờ lo cho trẻ tự kỷ và không thể chú ý đến học sinh khác; hoặc họ không muốn con chơi với trẻ tự kỷ để con không bắt chước tật của trẻ, vì trẻ tự kỷ không 'bình thường'.
Vậy chuyện bạn có thể làm là khiến trường, thầy cô, học sinh trong lớp ý thức về tình trạng của con; hãy giúp thầy cô bằng cách soạn một hay hai trang giấy về những đặc điểm cần chú ý của con, tật hay gặp cùng cách đối phó ở nhà, cho họ biết vài điều như:
− Trẻ tự kỷ yếu kém về mặt giao tế, không có kỹ năng tương tác, không hiểu qui luật xã giao và không biết mình phải theo những qui luật đó.
− Thầy cô cần nói chỉ dẫn rõ ràng, kiểm lại là em hiểu nó và biết mình phải làm gì. Nên bắt đầu bằng tên em, nếu không em có thể không biết là thầy cô đang nói với mình. Kế đó thầy cô có thể nghĩ là điểm chính của bài học thật hiển nhiên, dầu vậy không chừng trẻ lại chú tâm vào một điều khác hẳn.
− Trẻ tự kỷ hay thích chuyện gì quen thuộc và không muốn đổi sang chuyện xa lạ em chưa biết.
− Buổi họp toàn trường có thể gây khó khăn cho trẻ tự kỷ, vì có đông người trong phòng họp, khung cảnh ồn ào; nếu được thì xin cho con ngồi ở bìa cho thoải mái hơn, thay vì giữa hàng ghế, và nếu có bạn ngồi cạnh để trông chừng thì càng tốt. Dùng máy tính giờ (timer) để giúp em có ý niệm về thời gian, giải thích buổi họp sẽ kéo dài bao lâu.
− Quan sát thấy rằng giờ ra chơi gây nhiều khó khăn cho trẻ tự kỷ vì nó không có thứ tự, khuôn khổ trong khi trẻ rất cần trật tự, sắp xếp rõ ràng. Khi em không biết chắc
phải làm gì, em có thể có hành vi không thích hợp hoặc tách xa bạn bè và bị cô lập. Để tránh chuyện này bạn có thể khuyến khích con gia nhập một nhóm họp lúc ra chơi, thí dụ nhóm chơi cờ (chess), nhóm điện toán v.v. ; hỏi xem con có thể ngồi trong thư viện; nếu con thích ngồi một mình thì tìm xem trường có chỗ thích hợp cho em. Nếu con muốn dự trò chơi với các bạn mà không biết cách, hãy dạy con vài câu mở lời sao cho bạn không nghĩ là em mát dây, ngớ ngẩn.
− Giờ ăn trưa là thời điểm khó khăn nữa và em cần có phương thức đối phó để giảm bớt căng thẳng. Bạn có thể cho nhân viên phòng ăn biết về đặc điểm của con và xếp đặt sẵn cho trẻ.
− Khi đưa con tới trường, tìm cách thả con xuống cùng một chỗ mỗi ngày, và khi đón thì cũng nên xếp đặt để đón y chỗ mỗi buổi. Có sẵn nước uống và món ăn chơi khi tới đón sau giờ học, giúp con xả hơi; và khi về nhà thì có chỗ dành riêng cho con xả căng thẳng.
− Chót hết, ngày nào có trục trặc làm trẻ bối rối, lo lắng như mất đồ chơi quen thuộc, áo ưa thích chưa giặt và không được mặc hôm nay thí dụ vậy, bạn cần cho thầy cô biết ngay từ đầu để hiểu và nhân nhượng với thay đổi về hành vi ở lớp. Không được báo trước thì thầy cô ngỡ ngàng với sự đổi tánh, và ai nấy đều bực bội không vui, cả lớp cũng như con bạn.
● Vấn Đề về Cảm Quan.
Đa số học sinh tự kỷ bị trục trặc về cảm quan, muốn cho em thành công ở trường thì điều quan hệ là học sinh không cảm thấy bị rối loạn nhiều về cảm quan, và bậc trung học là lúc thiếu niên cần bắt đầu học cách nhận biết khi nào mình bị ảnh hưởng do các tật về cảm quan, như cảm thấy khó chịu, bối rối, nóng nẩy. Các em có thể học cách diễn đạt để báo động cho người chung quanh hay là em phải rời khung cảnh làm em bất an, hoặc học cách phản ứng thích hợp. Đó có thể rất giản dị như là tấm thẻ em đưa cho thầy cô ghi lý do em muốn rời lớp và nhờ giúp đỡ, việc có thể tỏ ý cho người khác hay về vấn đề mà cảm quan gây ra là bước đầu tiên dẫn đến việc học cách đối phó với chúng.
Chuyên viên về cơ năng trị liệu (occupational therapist) được huấn luyện về hòa hợp cảm quan, và có kinh nghiệm với những vấn đề của tuổi thiếu niên, môi trường của bậc trung học sẽ có thể chỉ dạy học sinh những sinh hoạt hữu ích về cảm quan, giúp cho em không bị xáo trộn quá đáng. Vấn đề có thể liên hệ đến ánh sáng, âm thanh, mùi hương v.v. nên cha mẹ cần chú ý để xác định rồi hoặc tự giải quyết, hoặc trình bầy với trường để gia đình và trường hợp tác đối phó. Một thí dụ của sự hợp tác là cho em ngồi nơi thuận tiện trong lớp không bị nắng chói, đèn thay bóng để ánh sáng không làm em nhức mắt và đau đầu nếu đó là vấn đề; về phần gia đình thì cha mẹ có thể cho con luyện thính giác để quen với các loại âm thanh khác nhau, giúp cho em không còn gặp khó khăn với một số âm thanh trong môi trường hằng ngày. Tại những nước tây phương cha mẹ có thể liên lạc với hội về chứng tự kỷ để xin chi tiết nơi trị liệu bằng âm thanh. Nói chung thì ta cần tìm sự quân bình giữa việc làm giảm sự nhậy cảm nơi người tự kỷ và việc tập thích ứng với khung cảnh họ sinh sống. Sau đây là vài thí dụ:
○ Nếu có âm thanh gây cho em khó chịu thì bạn có thể cho em dùng nút bịt tai (earplug), nó hữu ích trong việc giảm sự nhậy cảm với âm thanh; điều lưu tâm là đặt nút bịt tai sao cho em vẫn nghe được người khác nói chuyện với em để không làm ngơ khi thầy cô gọi và em cần trả lời, hoặc nghe tiếng chuông reo đổi giờ học. Khi cần tập trung tư tưởng làm bài em có thể được phép đeo headphone nghe nhạc vặn nhỏ, cách này có sự hữu ích của nó nhưng không nên kéo dài, vì mục tiêu nhắm tới là tập làm giảm sự nhậy cảm và ta chỉ đạt tới điều ấy khi ở trong môi trường có tiếng ồn mà không phải nhờ xa lánh nó. Mặt khác, thiếu niên cần quen với tiếng động trong cuộc sống hàng ngày thay vì cô lập mình, bởi đó là thực tế và ta thay đổi mình cho quen thì dễ hơn là đòi hỏi khung cảnh thay đổi cho hợp ý ta.
○ Đối với ánh sáng, nếu bị chói mắt em có thể xin phép được mang kính mầu trong lớp; khi khác thì đội mũ có vành de ra sẽ giúp chặn ánh sáng nhấp nháy của đèn huỳnh quang. Cha mẹ nên cẩn thận trong việc trị liệu về sự nhậy cảm của mắt. Thị giác là cảm quan hết sức mỏng manh lẫn vô giá, cần được bảo vệ rất kỹ để tránh rủi ro có hại; nó có nghĩa khi muốn có trị liệu về thị giác cha mẹ cần biết phương pháp có căn bản khoa học ra sao, hỏi xem sách vở hay tài liệu nào hỗ trợ cho trị liệu, yêu cầu được đọc các bài này và xem chắc là có ai đã được chữa thành công hay có cải thiện đáng kể nhờ trị liệu. Bạn cần phải có chứng cớ rõ ràng trước khi đóng tiền cho con chữa bệnh, để tránh việc tiền mất tật mang hoặc tệ hơn nữa là mắt bị ảnh hưởng do trị liệu sai lầm.
○ Sang xúc giác nếu thiếu niên bị khó chịu khi có đụng chạm thì những ai chung quanh em hằng ngày cần biết là em không muốn bị đụng chạm. Người tự kỷ có khi thích có cảm giác về áp lực sâu, nếu con bạn ưa thích như vậy thì một giải pháp là cho em đeo túi đeo lưng nặng, túi đeo vai, hoặc may túi lót bên trong áo len, áo khoác có chứa vật nặng để tạo áp lực. Em khác có thể muốn lúc nào cũng có cảm giác nhai, bạn hãy dặn con luôn luôn mang kẹo cao su trong túi.
○ Em nào nhậy cảm về mùi thì cho em mang khăn tay có tẩm mùi ưa thích để em có thể ngửi mùi này, khi khung cảnh có những mùi khác làm em thấy ngộp. Với em không biết nói thì vấn đề có thể trở nên trầm trọng, nhưng may mắn là cách giải quyết lại rất giản dị, chỉ cần bạn tinh ý một chút; thí dụ có em đang ngoan nay bỗng trở chứng la hét. Người ta truy được nguyên nhân là tật bắt đầu có khi cô giáo thay đổi nước hoa, học sinh không chịu được mùi của nước hoa mới nên đâm ra náo động trong lớp, việc học hóa ra chậm lại.
● Hành Vi Trục Trặc.
Như đã có trình bầy trong các sách về tự kỷ, hành vi là một hình thức liên lạc tỏ ý, và có thể có nhiều lý do khác nhau cho cùng một hành vi mà do nhiều người làm. Ở trường, khi hành vi của thiếu niên trở thành mối quan tâm lớn thì học sinh có thể được thẩm định, để tìm nguyên do, hệ quả và cách đối phó. Nó xét tới những gì xẩy ra trước khi có hành vi, hành vi thực sự và hệ quả của hành vi. Dụng ý của việc thẩm định là để có hiểu biết rõ hơn về hành vi và các yếu tố chi phối nó; chuyên viên giỏi dang khi phân tích hành vi có thể ấn định rõ ràng những lực gì nằm sau và thúc đẩy nó. Xin đọc thêm chương bốn về cách giải quyết một số hành vi.
● Bắt Nạt.
Đây là vấn đề lớn cho cha mẹ, chẳng những việc bắt nạt xẩy ra tại nhiều trường mà người tự kỷ và Asperger còn là nạn nhân tuyệt hảo. Bắt nạt diễn ra dưới nhiều hình thức, bằng lời nói trêu chọc, khiêu khích cho đến việc dùng vũ lực; bởi nó sinh ra ảnh hưởng nặng nề cho nạn nhân, trường và cha mẹ cần hợp lực ngăn ngừa và có biện pháp đối phó. Người tự kỷ dễ bị bắt nạt vì không thể suy ra ý người khác dựa vào thái độ và hành vi dễ đoán; có khi thiếu niên bị nhắm tới mà khi khác thì em ngay tình vướng vào hoàn cảnh không an toàn và vào lúc này, bắt nạt có thể diễn ra ở trường lẫn trên internet và điện thoại di động.
Em bị tấn công còn do cách xử sự, điệu bộ khác người, không hòa với chúng bạn. Trong khi những học sinh khác muốn tỏ ra độc lập bằng cách phá luật nào có thể phá ở trường thì thiếu niên tự kỷ răm rắm tuân theo luật, và có thể phản đối lớn tiếng trong lớp khi có ai phá luật, do đó em không được các bạn ưa chuộng. Lý do khác làm em bị ăn hiếp còn là vì giọng nói, y phục, đầu tóc của học sinh gây hiểu lầm cho người khác. Người tự kỷ thường có giọng đơn điệu không thay đổi, không biết ăn nói cho hợp với người đối diện (nói với bạn bè cùng tuổi hoặc thầy cô đều cùng một cách thức) nên ai tiếp xúc dễ có cảm tưởng sai lạc là em thô lỗ, trịch thượng, chế nhạo họ.
Tật của chứng tự kỷ còn gây ấn tượng bất lợi cho thiếu niên, thí dụ em không nhìn vào mắt, giọng phẳng lì, đứng nhúc nhích không yên làm người khác tin là em có điều muốn che dấu, không thật lòng. Em không có ý niệm về tôn ti, kính nể người có thẩm quyền nên mạnh dạn sửa lỗi thầy cô, gây phật ý. Chuyện hóa tệ hơn cho trẻ Asperger nào giỏi ăn nói, em thao thao khiến mọi người tin rằng em hiểu biết nhiều, hiểu ý họ nên khó tha thứ khi em tỏ ra không hiểu nghĩa bóng, không cư xử theo luật bất thành văn trong lúc giao tiếp.
Ngoài việc gặp nhiều rủi ro hơn trẻ khác về chuyện bị bắt nạt, trẻ tự kỷ còn có thể không nói được cho bạn nghe chuyện gì xẩy tới cho em. Khi khác trẻ tự kỷ muốn được hòa vào nhóm và sẽ làm những gì mà kẻ bắt nạt đòi hỏi, thường khi đó là những việc có thể gây hại cho trẻ, hoặc làm em bị rắc rối với nhà trường, thí dụ em gái cởi y phục trong sân chơi. Trẻ tự kỷ còn là mục tiêu dễ nhắm trong sân trường vì các em hay chơi một mình, không có ai hỗ trợ chung quanh.
Cha mẹ cần cho con và trường hay rằng bắt nạt là điều không thể được khoan thứ, và dàn xếp với trường để có một nhân viên mà thiếu niên có thể tiếp xúc để được giúp đỡ, khi em cảm thấy không an toàn. Trong gia đình cha mẹ có thể dạy con có lòng tự tin, biết giá trị của mình; từ ý niệm này em sẽ cảm thấy bị xúc phạm khi có bắt nạt, và mạnh dạn phản đối hoặc kể lại chuyện cho thầy cô hay cha mẹ biết để mau lẹ đối phó. Tới đây bạn thấy việc dạy con biết tự biện hộ, lên tiếng bảo vệ quyền lợi của mình có ứng dụng tốt đẹp ra sao.
○ Bắt nạt là sao.
Bắt nạt được định nghĩa là:
- Cố ý gây tổn thương tình cảm hoặc thể chất,
- Sự việc tái đi tái lại trong một khoảng thời gian, và
- Nạn nhân khó mà bảo vệ mình với việc ấy.
Bắt nạt chia làm ba loại:
- Thể chất, như đánh, đá, lấy đi đồ vật.
- Lời nói như gọi tên bậy bạ, xúc phạm, phê bình chọc giận.
- Gián tiếp như tung lời đồn đãi, nói chuyện xấu về nạn nhân, tẩy chay không cho nhập vào nhóm bạn bè, gửi email hoặc gửi text có ác ý bằng điện thoại di động.
Ngoài việc bắt nạt trong trường, nay những cách liên lạc mới như internet và điện thoại di động cho phép kẻ bắt nạt trêu chọc người ta bằng những cách khác và ngoài giờ học. Nó có nghĩa sau khi tan trường, học sinh vẫn có thể bị chọc phá vào buổi tối và luôn cả cuối tuần. Bắt nạt lối mới gồm có việc gửi text bằng điện thoại di động, emails, chuyện gẫu trên internet (chat forums), các trang web. Kẻ bắt nạt có thể khuyến khích bạn cùng lớp gửi cho nhau những lời gây tổn thương cho một em nào. Cách khác là dùng điện thoại di động chụp hình, quay video người bị đánh hoặc bị chọc phá rồi gửi đi cho bạn bè xem.
Thường thường, 1/3 nạn nhân bị bắt nạt không hề cho ai hay. Trẻ có khuyết tật dễ bị bắt nạt gấp ba lần trẻ bình thường, mà một số em cũng dễ chính mình thành kẻ bắt nạt người khác. Chót hết, bắt nạt xảy ra ở trường bình thường lẫn trường đặc biệt.
○ Dấu hiệu.
Khó khăn cho cha mẹ là không dễ biết con mình bị bắt nạt hay không, nhất là khi trẻ không biết nói, hoặc không nghĩ mình bị bắt nạt để cho cha mẹ hay. Chẳng hạn có trẻ được bạn đổi hai đồng 25 xu để lấy đồng cắc một đồng. Hai đổi lấy một nhưng là 50 xu đổi được một đồng, và trẻ tự kỷ nghĩ mình có bạn tốt. Vậy bạn cần tìm những dấu hiệu khác để xem con có thể bị bắt nạt khi nghi ngờ. Chúng có thể là:
- Đi học về với quần áo dơ, rách hoặc mất y phục, túi đeo lưng, sách vở, tay chân trầy trụa, bầm,
- Không có tiền mà đáng lẽ em phải có, hoặc hỏi xin thêm tiền cho ngày mai.
- Tới trường hay về nhà trễ vì phải đổi đường tới trường hoặc về nhà.
- Tránh né không muốn đi học, nại cớ để nghỉ học.
- Tỏ ra bị căng thẳng, rầu rĩ, không vui hoặc không khoẻ.
- Sức chú ý bị giảm, hoặc thầy cô cho hay tiêu chuẩn bài làm của em xuống thấp hơn.
- Trẻ tự kỷ có thể có thay đổi đột ngột về hành vi do bị bắt nạt ở trường, như lo lắng nhiều hơn, bị khó ngủ nhiều hơn và nổi xung ở nhà. Em còn có thể bắt chước kẻ bắt nạt trong cách đối xử với anh chị em ở nhà, bắt nạt anh chị em vì không hiểu hành vi như vậy không chấp nhận được. Em chỉ nghĩ mình làm điều gì mà bạn bè đã làm.
○ Ảnh hưởng.
Ảnh hưởng lâu dài của việc bắt nạt có thể nghiêm trọng. Nghiên cứu nói là trẻ bị bắt nạt có thể thấy không an toàn trong một thời gian dài, có vấn đề với hành vi, lòng tự tin sút giảm, và sức chú ý kém. Em có thể không muốn giao tiếp vì sợ bị bắt nạt, cũng như có thể mắc bệnh liên quan đến việc bị căng thẳng. Một số về sau có thể mắc bệnh tâm thần. Ở nhà, cha mẹ có thể cần phải nuôi dưỡng lòng tự tin của con. Hãy khen những bài đặc biệt nào của con ở trường, cho con thấy là chứng tự kỷ làm con giỏi về mặt này hay kia. Kể chuyện những ai tự kỷ mà thành đạt như cô Temple Grandin.
Nếu con bạn là kẻ bắt nạt thì hãy nghĩ xem con làm vậy để muốn nói điều chi. Muốn được chú ý chăng ? Muốn được nhận vào nhóm chúng bạn ? Hoặc không biết là mình gây tổn thương cho người khác ? Có ai xúi giục em không ?
Tập kỹ năng giao tiếp cho em có thể là điều lợi, em có thể cần được chỉ cách mời bạn chơi với mình, hoặc dạy con làm chuyện khác nếu thấy bực bội. Chẳng hạn em không đánh người ta mà đi tìm ai tin cậy và đưa thẻ có viết trên đó cho họ xem để nhờ giúp, đây là cách áp dụng cho em nào không nói giỏi hoặc không biết nói, hoặc em có thể đá banh.
○ Cách Đối Phó.
− Tránh kẻ bắt nạt.
Hãy dạy con là khi không cảm thấy an toàn thì em nên tìm cách ở gần hoặc trong một nhóm học sinh khác, là bạn của em hay không. Cách khác là nhờ bạn của mình hoặc ai mà em tin cậy trông chừng em. Đừng tìm cách đánh trả, vì đánh nhau có thể làm em gặp rắc rối, hoặc em có thể bị thương. Khi gặp một hoặc nhiều kẻ bắt nạt và không thể tránh ngay thì em có cách là tìm một bạn hay người trong nhà để cùng tập cách trả lời câu chọc phá mà kẻ bắt nạt có thể nói với em. Thí du:
Kẻ bắt nạt: Giầy anh xấu quá.
Học sinh: Đó là anh nghĩ thôi. Giầy tôi thoải mái lắm.
Tập những câu này và viết ra giấy. Kẻ bắt nạt có thể nói những điều về hình dạng bề ngoài của em, gia đình hoặc những gì mà em thích làm. Em có thể viết
- Em nói như vầy khi người ta nói về hình dạng của em …
- Em nói như vầy khi người ta nói về gia đình em ...
Nếu em cảm thấy sợ hãi thì đó là chuyện tự nhiên. Ai cũng thấy sợ. Điều quan trọng là em được chỉ cách làm gì khi nghĩ là mình sợ và muốn tránh xa cảnh bị bắt nạt. Cha mẹ có thể dạy con nhận biết nét mặt và cử chỉ, ánh mắt của kẻ bắt nạt lẫn của em.
− Dạy con biết cách tìm sự giúp đỡ.
Nếu chuyện xẩy ra ngoài đường thì em có thể đến thư viện, trung tâm sinh hoạt cộng đồng, phòng chơi (leisure centre) hoặc những nơi khác mà cha mẹ có thể chỉ cho con, vì những nơi này thường có nhiều người trong đó, dù họ biết em hay không. Vào đó thì em không còn đơn độc và có thể nhờ người lớn trợ giúp.
− Đừng làm ngơ việc bị bắt nạt, vì chuyện tự nó sẽ không biến mất khi em không làm gì. Chuyện còn có thể hóa tệ hơn nếu em làm ngơ nó. Em không có lỗi gì khi bị bắt nạt, và không ai đáng phải bị đối xử như vậy. Hãy nói cho người khác biết, vì chuyện sẽ không chấm dứt khi không có ai khác hay. Nếu em không thể nói thì có thể viết ra giấy và đưa cho cha mẹ hoặc ai khác xem, như ông bà, thầy cô, nhân viên ở trường.
− Khi nhận được text qua điện thoại di động, hoặc email ác ý, hoặc điều gì viết về mình trên internet, em có thể vào trang web sau để học cách đối phó: cybermentors.org.uk. Còn khi dùng internet, em cần theo một số luật để được an toàn.
IV. CHUẨN BỊ cho TƯƠNG LAI.
Cha mẹ cần can dự vào việc chuẩn bị để bảo đảm là sẽ có chương trình chuyển tiếp hợp với nguyện vọng của con; về phần thiếu niên em cần nói lên mơ ước của mình, điều em ưa thích và giỏi dang lẫn điều không thích và yếu kém, và có cuộc hội ý tất cả những ai liên hệ đến việc chuẩn bị cho em ra đời sau trung học. Điều thiếu niên phải đối đầu là vừa phải học các điều cần biết của bậc trung học, mà cũng phải học những kỹ năng cần thiết cho tương lai, cho việc chuyển bước sang thế giới của người trưởng thành. Dù em sẽ vào đại học, đi làm, sống độc lập hay ở trong nhà tập thể, em cần chuẩn bị trong những năm trung học cho mọi hoàn cảnh của cuộc sống thường ngày. Trung học là lúc cho ta xem xét các hy vọng tương lai của em, và trang bị cho em khả năng để thực hiện chúng.
Ngày nay cha mẹ ý thức nhiều hơn về chứng tự kỷ, nên có khuynh hướng nỗ lực mạnh mẽ để giúp con sống đời tốt đẹp hơn, so với cuộc sống của người khuyết tật thuộc thế hệ trước. Trong lúc đó trường học không theo kịp cách suy nghĩ này, và không chuẩn bị cho đa số học sinh tự kỷ về việc ra đời sau trung học, bất kể là em chọn đường hướng nào là học lên cao, đi làm, ra riêng hoặc sống chung trong nhà tập thể. Cha mẹ và học sinh được cho biết rất ít chọn lựa về tương lai, có trường hợp không được cho biết tất cả những đường hướng em có thể chọn, và nhân viên hữu trách chỉ trình bầy điều gì hợp cho chính phủ, thay vì điều gì có lợi cho thiếu niên lẫn xã hội về lâu về dài.
Thí dụ thầy cô nói rằng em có khả năng học nghề ở trường TAFE (tại Úc) với ý là học xong thì em đi làm, nhưng họ không nói thêm là số người tự kỷ hay Asperger tìm được việc làm so ra rất thấp so với người bình thường (69% không có việc làm tại Hoa Kỳ, 85% tại Anh), dù người tự kỷ nói rằng họ làm việc giỏi dang và chăm chỉ. Khi học xong mà không có việc làm thì em sẽ ngồi nhà nhìn bốn bức tường 24 tiếng một ngày ư ? Đó là lý do cha mẹ cần biết nhiều thông tin, các thiếu sót của hệ thống trợ giúp người khuyết tật, và quyền lợi của con để trang bị khi nói chuyện với nhân viên chính phủ, nhà trường trong cuộc họp bàn chương trình học cho em. Điều quan trọng là cha mẹ và thiếu niên có cái nhìn thực tế, biết những gì sẽ gặp, thực trạng chờ đợi em khi học xong, có sáng kiến và nghĩ tới những điều gì có thể làm được cho em.
Một cách chuẩn bị cho việc đi làm khi học xong là em tập đi làm trong lúc ở bậc trung học, hoặc có lương hoặc làm thiện nguyện dựa theo điều em ưa thích. Nếu ưa thích thú vật em có thể xin làm trong cửa hàng bán thú cưng (pet) hoặc ngay cả sở thú, cho em nào có mơ ước học ngành thú y. Cha mẹ giúp được con bằng cách tìm chủ nhân nào cần tài năng đặc biệt cho thương nghiệp của họ, như cần người biết về thảo chương điện toán (programer), biết vẽ, trang trí, làm trang web v.v., tức những tài năng mà thiếu niên có. Đây cũng có thể là bước đầu cho thiếu niên tập loại công việc tự mình làm chủ, dẫn tới hành nghề tự do mai kia.
Để quảng cáo và trưng ra tài năng của mình thì thiếu niên có thể làm trang web trên internet, hoặc soạn một tập gồm những tài liệu mẫu (portfolio) cho chủ nhân xem. Thời gian ở trung học còn có thể được dùng để luyện kỹ năng cho thêm tinh xảo, giúp em tìm việc dễ dàng hơn. Điều hiển nhiên là muốn thành công trong công việc thì người ta nên chọn ngành thuộc khả năng của mình; mà như vậy cũng chưa đủ vì biết kềm chế sự lo lắng, làm chủ tính khí và có kỹ năng giao tiếp là những điều cần yếu ngang với kỹ năng.
● Thời Gian Chuyển Tiếp sau Trung Học.
Điều hiển nhiên là tùy theo khả năng của con mà bạn lập chương trình cho tương lai, nếu xét thấy con có thể theo đường học vấn thì đại học là đích nhắm, còn nếu có dự tính cho em đi làm thì nên nhìn vào sinh hoạt của cộng đồng để lấy ý. Thiếu niên cần tỏ ý về tương lai của mình; với người tự kỷ biết nói rành rọt thì em biết nói lên mình muốn gì cho tương lai; ai không biết nói thì cần cho em phương tiện để tỏ ý.
Về việc làm nếu không tìm ra điều gì như mong muốn thì có lẽ bạn cần phải hội ý với toán ở trường lo về chuyển tiếp cho học sinh. Lấy thí dụ cha mẹ nghĩ rằng phụ việc ở thư viện hợp với con nhưng thư việc không dự tính mướn nhân viên lúc này; thay vào đó khi được cha mẹ cho biết ý định, toán hỗ trợ của nhà trường đề nghị việc khác là cho thiếu niên tập việc ở nhà trẻ vì em tỏ ra thích trẻ nhỏ. Cha mẹ thuận theo và sau
một thời gian học việc rồi tập sự, nhà trẻ cho hay em làm được việc và họ rất sẵn lòng nhận em vào làm. Câu chuyện cho bài học là cha mẹ cần uyển chuyển, sẵn sàng đổi thái độ và niềm tin khi thấy làm vậy thuận tiện cho con.
Trường hợp khác thì có thể cha mẹ phải tìm tòi và tạo cơ hội cho con làm việc, khi không có sẵn cơ hội ấy ở chung quanh. Thí dụ đưa ra là có em lúc nhỏ thích tháo đồng hồ, máy móc rời ra hết và sau đó ráp lại dễ dàng. Cha mẹ nhận biết khả năng này nên lúc con trưởng thành, giúp con mở thương nghiệp nhỏ là lắp ráp và sửa xe đạp, như vậy khi cha mẹ xông xáo không quản khó nhọc thì con tự kỷ có khả năng thấp vẫn có thể sống đời ý nghĩa, có việc làm hợp với em. Chuyện quan trọng ở đây là chính cha mẹ phải tạo ra cơ hội mà không thể mong nhờ vào ai khác.
Đề nghị đưa ra là nếu bạn thấy có việc hợp với ước muốn và sở thích của con thì tìm hiểu xem thiếu niên cần có những kỹ năng chi, phải có hỗ trợ gì để thành công trong môi trường đó. Sự việc nhấn mạnh thêm điều ta đã nhắc tới đôi lần ở trên, là sự thành công của việc làm trong tương lai tùy thuộc vào việc phát triển khả năng và sở thích của em ở bậc trung học.
Giống như mọi ai khác, thiếu niên sẽ vui vẻ sung sướng khi làm điều mà em thích thú mà chắc chắn bạn muốn con sống hạnh phúc, vậy hãy xem có những cách nào giúp em tìm được việc làm ưa thích; hoặc hay hơn nữa bạn tạo cơ hội cho con có việc làm nếu không thấy có việc gì hợp với con. Thường thường với người tự kỷ khả năng thấp thì cha mẹ cần nỗ lực nhiều hơn để tìm việc cho con. Ngay cả khi ta chưa biết em sẽ làm được việc gì, ta vẫn phải dạy thiếu niên những kỹ năng cần thiết cho mọi nghề như biết xếp đặt, có óc tổ chức, ngăn nắp v.v. Khi không được cho cơ hội phát triển tài năng hoặc luyện tập để có kỹ năng cần thiết, có hỗ trợ đúng cách để thành công trong việc làm, đa số người tự kỷ hay Asperger khó có được việc làm và có việc nhưng không sử dụng được hết khả năng của mình.
Chót hết thì điều cần nhớ ở đây là đối xử với con tự kỷ của bạn y như là với con bình thường về mặt tìm việc, có nghĩa:
○ Quan tâm đến tài năng, năng khiếu, mơ ước của thiếu niên.
Em thích làm điều gì, em làm điều gì giỏi ? Người biết nói thì có thể cho cha mẹ, thày cô hay còn với ai không thể diễn tả ý nghĩ rõ ràng hoặc là không biết nói thì cha mẹ cần quan sát kỹ hơn, và hỏi thăm ý kiến của thầy cô, những ai tiếp xúc với thiếu niên và biết rõ về em như bạn bè.
○ Tìm người làm gương cho con noi theo. Thiếu niên bình thường có những gương thành công ngoài đời khiến em ngưỡng mộ thì thiếu niên tự kỷ cũng có những người cho em bắt chước; có nhiều sách do người tự kỷ viết, ghi lại kinh nghiệm làm việc của họ, bạn nên tìm đọc để có thông tin thực dụng, biết họ đã chuẩn bị ra sao và công việc đòi hỏi chuyện chi, cùng điều gì hữu ích trong việc chuẩn bị đi làm. Sau đây là vài điểm nêu ra trong các sách này:
− Nhiều người bình thường không thích việc làm của mình nhưng họ làm vì lợi nhuận, tức động cơ thúc đẩy là lợi nhuận. Với người tự kỷ thì lợi nhuận có khi không phải là động cơ mạnh gợi hứng cho họ, và bởi họ cần phải thích loại công việc mà họ
làm vậy thì chuyện đặc biệt quan trọng là tìm loại công việc thích hợp cho chính cá nhân.
− Ghi một bảng những điều ưa thích và không thích, ưu điểm và điểm yếu cũng như là điều gì quan trọng cho họ trong môi trường làm việc, thí dụ có ít tiếng ồn, không có ánh sáng chói. Các chi tiết này có thể hữu ích khi xem xét những việc họ có thể làm hoặc thích hợp cho họ. Các câu hỏi nên đặt ra là: Tôi được độc lập tới mức nào ? Nếu tôi cần giúp đỡ thì có được trợ giúp không ? Tôi phải làm bao lâu thì được nghỉ xả hơi ?
− Người tự kỷ đóng góp gì được cho thương nghiệp. Nếu muốn giúp con tìm việc thì bạn phải biết tâm lý của chủ nhân, trình bầy lợi ích của việc mướn người tự kỷ mới mong họ xét đơn thuận lợi.
− Kỹ năng giao tiếp. Cho dù kỹ năng này không quan trọng để làm được việc, nhưng nó lại quan trọng để người ta giữ được việc lâu dài vì có nhận xét rằng việc làm không phải chỉ là việc làm, mà còn là đối xử với người khác. Chỗ làm khác nhau có thể đòi hỏi kỹ năng giao tiếp khác nhau, nhưng nói chung có một số kỹ năng căn bản mà mỗi ai đi làm, là nhân viên đều nên biết. Thí dụ ai cũng phải tìm hiểu để biết người nào giúp được mình và cách hỏi xin trợ giúp, tức không phải mỗi năm phút là gọi họ hoặc muốn hỏi lúc họ đang nhận điện thoại.
− Chỉ dẫn cho bạn cùng chỗ làm. Đôi khi những bạn cùng làm với người tự kỷ cần
được cho biết vài điều về họ để hiểu những tật của người này và thích nghi với chúng. Thí dụ nói 'Ảnh cần 30 giây để trả lời vì suy nghĩ chậm, xếp đặt tư tưởng không được mau lẹ' sẽ khiến người chung quanh thông cảm và tỏ ra kiên nhẫn hơn.
Sự hợp tác của người chung quanh rất cần cho sự thành công của người tự kỷ, kinh nghiệm nói rằng nếu ta có thể dạy được kỹ năng thì dạy họ. Nếu không thể dạy thì thích nghi nó với khung cảnh, tìm cách khác để làm. Và nếu không tìm ra cách khác thay thế thì dạy người chung quanh cách đối phó.
− Tự làm chủ. Ngoài ba cách làm việc chính nêu ra trong quiển Tự Kỷ và Trị Liệu cho người khuyết tật nói chung, một cách khác nữa là hành nghề tự do hay tự làm chủ mà ai có khả năng nhiều hay ít đều cũng có thể làm được. Thường thường đó là việc làm dựa trên năng khiếu khéo léo, kỹ xảo riêng biệt của một người; họ có thể tự mình làm được hết việc mà cũng có khi chỉ làm được một phần nào, và phải giao phần họ không thể làm cho người khác hoàn tất.
Cách dàn xếp này cho cá nhân cơ hội làm điều mà họ thích làm, không bị gò bó trong hệ thống hay khuôn khổ, hoặc bị giới hạn vì môi trường không có sẵn hoạt động thích hợp cho họ, và nó cũng cho họ nhiều kiểm soát hơn về khung cảnh chung quanh.
● Tiến Thân Bằng Chữ Nghĩa.
Nhiều người tự kỷ khả năng cao thành đạt bằng đường học vấn, một số theo đuổi môn mà họ ham mê như toán, điện toán, nhạc. Bởi có nhiều ngành học, điều quan trọng ở đây cũng giống như trên là tìm ngành hợp với sở thích và khả năng của người tự kỷ. Sách vở cho ra một số nhận xét đáng nói, mô tả sự khác biệt giữa bậc trung học và đại học như khác biệt giữa chuyện đi phi cơ thương mại và tự mình lái phi cơ riêng. Ở
trung học, học sinh được cha mẹ và cộng đồng chung quanh hỗ trợ với cha mẹ là người cầm lái vận mạng cho em; khi vào đại học thì người tự kỷ phải điều khiển phi cơ của mình. Những khác biệt được kê ra là:
○ Ở bậc trung học, trọn cộng đồng nhận biết em. Thầy cô quen với của thiếu niên, quen biết gia đình và ngay cả anh chị em của em theo học cùng trường trước hay sau em vài năm; họ biết học sinh thuộc về khu trong vùng. Ngược lại trên đại học, giáo sư và nhân viên không biết gia đình em là ai, từ đâu tới, và có đông sinh viên đông giáo sư hơn; đại học thường rộng lớn hơn trung học.
○ Thời khóa biểu trên đại học khác với trung học, sự thay đổi có thể khó cho người tự kỷ nhất là khi sinh viên rời nhà ra thành phố trọ học hoặc ở trong ký túc xá. Họ sẽ có bạn cùng phòng và cần có kỹ năng tự lo thân để sống độc lập. Sinh viên còn phải có thể sinh hoạt theo thời biểu trong tuần, hoặc nửa năm học. Chẳng những kỹ năng giao tiếp cần thiết để việc sống chung diễn ra suông sẻ, mà nó cũng rất thiết yếu khi nói chuyện với văn phòng, giáo sư. Nhân viên đại học và giáo sư có thể không quen thuộc với chứng tự kỷ và thấy lạ lùng với cách ăn nói của họ; người tự kỷ có thể không diễn tả được hết ý mình hoặc làm người khác hiểu được nhu cầu của mình, và hệ quả là không được trợ giúp như ý hoặc đạt được điều mong muốn.
Về điểm này, trường đại học và trường TAFE tại Úc có những dịch vụ hỗ trợ rất hữu ích cho người khuyết tật mà cha mẹ và người tự kỷ nên biết để sử dụng. Mặc dầu vậy, vẫn có những người không biết đến nhu cầu đặc biệt của sinh viên, thế nên dưới đây là những gợi ý để giúp việc học được dễ dàng hơn:
○ Đưa ra thông tin về chứng tự kỷ cho những ai mà sinh viên cần phải tiếp xúc, cho biết cách nó ảnh hưởng sinh viên, khó khăn mà anh phải đương đầu và cách thức nào có thể giúp anh. Đây là lúc mà kỹ năng tự biện hộ sẽ giúp ích cho chính sinh viên, và không nên ngần ngại cho biết rằng mình có chứng tự kỷ để được giúp đỡ.
○ Cách thức đã dùng ở trung học cũng dùng lại được ở đại học, như viết ra thời biểu, ghi ra bảng điều cần nhớ hoặc cần làm, dùng hình, biểu đồ, video đều có ích. Đây là kỹ năng cho cả đời mà không phải chỉ cho một giai đoạn, vì thế nó đáng công cho bạn dành thì giờ dạy con.
Ta sẽ đề cập chi tiết những điều này trong chương tám.

Đi buôn

Những nguyên tắc để lấy được chồng tốt

1. NGUYÊN TẮC CHUNG: NGU THÌ CHẾT, BỆNH TẬT KHÔNG TỰ NHIÊN SINH RA.

Điều này có nghĩa là đàn ông không "tự dưng xấu". Nhiều bạn lấy làm ngạc nhiên rằng người chồng mình sao trước, và sau khi cưới lại khác đến vậy. Trước kia anh ta dịu dàng, galant, sạch sẽ, còn sau khi cưới anh ta cục cằn, vô học, bẩn thỉu, một sự biến đổi thần kỳ chăng?
Không, cái người đàn ông cục cằn, vô học, bẩn thỉu ấy không tự nhiên sinh ra. Anh ta vẫn ở đó, ở trong cái lớp vỏ dịu dàng sạch sẽ lãng mạn ấy, chỉ có điều bạn không nhận ra thôi.. Vì thế, lấy chồng tốt hay chồng xấu không phải là sự may rủi, điều đó phụ thuộc vào chính bạn, và chỉ bạn mà thôi. Bạn chọn đúng, bạn sẽ được hàng tốt, bạn chọn sai, bạn vớ phải hàng dởm. Nếu bạn không biết cách làm "người tiêu dùng thông thái", thì chẳng có gì ngạc nhiên khi bạn bị ngộ độc, bị thương tích, bị ốm đau vì chính thứ hàng tự tay mình mang về.
Nếu bạn mua phải một con cá ươn, thì đó là do số phận, hay do bạn đoảng?
Vâng, xin hãy nhớ nguyên tắc đầu tiên: Bệnh tật không tự nhiên sinh ra, ngu thì (phải) chết.

2. NGUYÊN TẮC 2: YÊU LÀ CHỌN LỰA

Nguyên tắc này còn được gọi là nguyên tắc: Không tin vào sự lãng mạn nhảm nhí.
Yêu là cái gì? Các bạn nhà văn, nhà thơ từ xưa đến nay đã tô vẽ, thần thánh hóa, huyền bí hóa, ngu xuẩn hóa tình yêu một cách triệt để, nào là yêu là hy sinh, yêu là hết mình, yêu là không biết tại sao yêu thì mới là yêu, yêu là không bao giờ nói lời hối tiếc blah blah... Tín đồ trung thành nhất của những cái tuyên ngôn hũ nút này tất nhiên là các bạn gái.
Các bạn quên mất hai điều quan trọng.
Thứ nhất, nhà văn nhà thơ là những kẻ thần kinh không bình thường, và nói chung là có cuộc sống không bình thường. Họ nhìn, đánh giá, cảm nhận cuộc sống theo một cách khác chúng ta, và thông thường là cực đoan. Họ không có cuộc sống bình thường chính là vì những suy nghĩ, cảm xúc có phần thái quá, lệch lạc đó. Vì thế trừ phi bạn cũng muốn sống như họ, còn không thì đừng có nghe họ.
Thứ hai, những kẻ hay tuyên truyền cho mấy thứ yêu là hy sinh, yêu là hết mình, yêu là không biết tại sao yêu thì mới là yêu, yêu là không bao giờ nói lời hối tiếc đó là ai? LÀ ĐÀN ÔNG. Tại sao? Bởi vì những điều đó có lợi cho đàn ông.
Với bản năng truyền giống của mình, đàn ông cần có những người đàn bà ngốc nghếch, dâng hiến, mù quáng... để có thể dễ dàng thực hiện chức năng giống nòi (cái này là do bản năng, ko phải cố tình đâu). Những người phụ nữ thông minh, biết cân bằng cảm xúc và lý trí tất nhiên không có lợi cho việc reo rắc gen khắp nơi, vì thế cần ngu hóa họ, đánh vào cảm xúc của họ, làm lạc lối họ. Cách tốt nhất là mang một thứ vô hình, khó xác định là tình yêu ra để làm công cụ.
Những cô gái bị ảnh hưởng bởi sự tuyên truyền một cách hoang tưởng về tình yêu này sẽ lao vào tình yêu (và đàn ông) như một con thiêu thân mù quáng. Không nghĩ, và không dám nghĩ, (sợ bị coi là "không biết yêu") đến việc tìm hiểu, đánh giá, nhận xét, cân nhắc về cái người mà nhiều khả năng mình sẽ lấy làm chồng, cái người có ảnh hưởng quyết định đến hạnh phúc cả đời mình. Yêu là không thể lý giải được, yêu là không tính toán, yêu là đi theo tiếng gọi trái tim v.v. Ok tốt thôi, đến lúc bị một thằng chồng vũ phu đánh đập, bị bà mẹ chồng nanh ác chửi bới... thì mang trái tim ra mà đền nhé.
Tóm lại: Yêu là quá trình phát triển cảm xúc, và đặc biệt là sự tìm hiểu, chọn lựa cần thiết đối với người bạn yêu. Lý trí cần cho tình yêu cũng như trái tim vậy. Kẻ nào nói với bạn tình yêu không cần lý trí, ấy là bởi vì kẻ đó chẳng có tí trí óc nào. Còn nếu bạn cũng muốn mình không có trí óc như vậy, thì hãy xem lại nguyên tắc số 1.

3. NGUYÊN TẮC 3: TÌNH YÊU CHẲNG GIÚP ĐƯỢC GÌ.

Tại sao phụ nữ khổ hơn đàn ông? Bởi vì họ ít lý trí hơn. Phụ nữ suy nghĩ bằng trực giác, bằng cảm tính, cảm xúc, mà những cái này thì rất dễ tác động. Có nghĩa là lừa phụ nữ thì dễ hơn là lừa đàn ông. Mà chả cần phải lừa, tự họ lừa họ là đủ rồi.
Điều phụ nữ tin tưởng nhất là gì? Có tình yêu là sẽ vượt qua tất cả? Oh, thật là buồn cười, thật là ngớ ngẩn. Giống như bọn nghiện vậy, có thuốc là chúng tin rằng có thể tự mình xây dựng được cả thiên đường cho bản thân, nhưng ai cũng biết thiên đường của nghiện thì hết cơn say thuốc là hết sạch, thiên đường của những kẻ coi tình yêu là phép màu cũng sẽ chết sau ngày cưới Khi dân nghiện say thuốc, chúng có cảm giác chúng trở thành siêu nhân có thể bay như chim, khỏe như gấu, vui như tết. Khi phụ nữ yêu họ cũng có cảm giác y như vậy, chính vì thế họ nghĩ rằng chừng nào cái cảm giác say sưa này còn tồn tại, họ có thể vượt qua tất cả, nào là cải tạo đàn ông, nào là khuất phục được mẹ chồng khó tính, nào là gánh vác được họ hàng nhà chồng blah blah...
Kết cụ thì sao? Bọn nghiện thân tàn ma dại, kết thúc cuộc đời sau khi nhận ra những gì xảy ra trong cơn say của mình là không có thật. Còn phụ nữ mù quáng cũng thân tàn ma dại sau khi nhận ra rằng cơn mê tình chẳng giúp họ đương đầu tốt hơn với những khó khăn trong cuộcsống gia đình, ngược lại, những khó khăn đó làm họ tỉnh mộng, và rốt cục tình thì chẳng còn, lại đeo thêm mấy cục nợ đời.
Vì thế, hãy luôn nhớ rằng, tình yêu là con chim nhỏ, xinh xắn, yếu ớt. Nó không giúp bạn vượt qua chông gai thử thách gì đâu, ngược lại, bạn còn cần phải chăm sóc, bảo vệ, o bế nó các kiểu nếu không muốn nó chết. Muốn chăm sóc nó như thế, bạn phải có thời gian, phải có sức khỏe và tâm trạng tốt, mà những thứ đó không có được nếu cuộc sống của bạn quá khó khăn. Tất nhiên đôi khi nó giúp bạn, làm cho cuộc sống của bạn thêm dễ chịu, nhưng phần lớn thời gian thì bạn là người phải giúp nó, chăm nó. Khi bạn không có gánh nặng gia đình, khi người đàn ông của bạn vẫn còn nồng nàn (đang trong giai đoạn chinh phục thử thách mà) thì việc nuôi một con chim nhỏ xinh xắn rất là đơn giản, và nó hót cho bạn vui suốt cả ngày. Nhưng khi bạn đầu bù tóc rối mặc bộ đồ nhàu nát cọ sàn vệ sinh thay cho osin trong nhà chồng, thì cái con chim ấy chẳng những không hót nữa, mà còn sẵn sàng ốm chết lúc nào không biết. Còn chồng bạn, luôn sẵn sàng nuôi một con mới (bản năng thôi, không cố tình đâu).
Đối thoại:
- Tình yêu ơi, tao khổ quá, sao mày không giúp tao vượt qua khó khăn?
TY:- Tao có hứa giúp mày vượt qua khó khăn hồi nào đâu? Tự mày nghĩ ra cái công dụng đấy cho tao mà.
- Nhưng nhiều khi tao thấy có mày tao cũng có thêm sức mạnh đấy chứ?
TY:- À, đại khái tao là viên thuốc hạ sốt, mày bệnh quá thì tao có thể giúp mày hạ nhiệt một lúc, nhưng tao KHÔNG PHẢI LÀ THUỐC CHỮA BỆNH. Còn mày thì cho rằng tao là thứ thuốc vạn năng bệnh nào cũng chữa. Mệt tao quá.

4. NGUYÊN TẮC BỐN: CHUYỆN NHỎ LÀ CHUYỆN LỚN.

Bạn cho rằng điều gì là quan trọng ở người đàn ông đang tán tỉnh bạn?
Đa phần các bạn gái sẽ trả lời: Anh ấy tốt với tôi, anh ấy yêu tôi, thế là đủ.
Câu trả lời phổ biến (và tâm đắc) này của các bạn, rất tiếc hoàn toàn chả có tí giá trị nào trong việc tìm kiếm một người đàn ông tốt để làm bạn đời. Khi đàn ông đi tán gái, tất nhiên anh ta phải tốt, tất nhiên anh ấy nói anh ấy yêu bạn. Đem tiêu chuẩn "tốt với tôi, yêu tôi" ra để chọn lựa, chẳng khác nào con cá trong đối thoại sau:
- Cá, thế nào là một thợ câu giỏi?
- À, theo tớ một thợ câu giỏi phải có cần câu, có mồi câu.
Đấy, có buồn cười không? Đã đi câu, ai chẳng có cần, ai chẳng có mồi (loại thợ câu đi người không đến hồ, xòe tay ra cho cá tự nhảy vào là siêu nhân, không tính), cần và mồi chẳng là gì để chứng tỏ một tay thợ câu tốt, tương tự "tốt với tôi, yêu tôi" chẳng nói lên được gì về người đàn ông đang muốn có bạn.
Thế cái gì mới là "chuyện lớn" quan trọng để bạn xác định được một ông chồng tốt?
Đấy chính là những chuyện nhỏ. Những hành động cử chỉ lặt vặt trong đời sống hàng ngày.
Những chuyện lớn ai cũng chú ý, nên ai cũng cố gắng làm tốt, hoặc giả vờ làm tốt. Những chuyện nhỏ ít được để ý đến mới hiển thị tốt nhất một con người, đặc biệt là khi người ta lơ đãng, hoặc người ta cho rằng không có ai để ý đến mình. Anh ta ngáp có che miệng không, ăn xong có ngậm tăm đi ngoài đường không, gặp tai nạn trên đường có xúm vào xem không, khi tức giận có chửi bậy không, về nhà có vứt quần áo bừa bãi không, bóng đèn cháy có gọi thợ không, vay tiền bạn bè có trả đúng hạn không, ngồi một chỗ có rung đùi như bị động kinh không? Đấy, bạn phải tìm hiểu người đàn ông của đời mình thông qua những thứ "lặt vặt" đó.
Có bạn hỏi: Chuyện nhỏ vớ vẩn ấy thì liên quan gì đến tình yêu vĩ đại? Chỉ là những thói quen, sửa là được, quan trọng là yêu, tình yêu đủ lớn thì sẽ vượt qua hết... la la la...
Trả lời: Hành vi bắt nguồn từ thói quen, thói quen bắt nguồn từ tính cách, văn hóa. Mà TÍNH CÁCH, VĂN HÓA chứ không phải TÌNH YÊU, mới là sự đảm bảo cho hạnh phúc.
Ở cùng với một anh chàng tốt tính, hòa hợp, bạn sẽ từ không yêu chuyển thành yêu, từ yêu ít thành yêu nhiều. Ở với một anh chàng chẳng ra gì, tình yêu sẽ chết nhanh thôi.
Còn dùng tình yêu để thay đổi tính cách? Chuyện hài nhất thế kỷ, giờ nào rồi mà còn nói đùa thế?

5. NGUYÊN TẮC 5: ĐỪNG NGHE ĐÀN ÔNG NÓI, HÃY NHÌN ĐÀN ÔNG LÀM.

Khoảng 90% những lời lẽ của đàn ông về tình yêu với bạn gái của mình là không thể tin được. Đặc biệt là các thanh niên chim chíp tán gái thì thôi rồi, toàn mang nhạc thị trường, nhạc sến, trà sữa tâm hồn, danh ngôn, trích dẫn truyện tình ba xu, phim Hàn Quốc... ra ba hoa, thật là đến bò nghe cũng phải phì cười (thế mà các cô gái lại rất thích, lạ ghê)
10% lời lẽ còn lại thì có thể tin (chẳng hạn như "em ơi anh muốn x em") nhưng lại không có giá trị lâu dài. Đây là điều phụ nữ dễ bị nhầm lẫn nhất, vì 10% này ngay cả những người đàn ông TỬ TẾ nhất cũng thường nói.
Chẳng hạn: Anh yêu em mãi mãi. Anh sẽ đi bên em suốt cuộc đời. Anh sẽ....
Họ có nói dối không? Không. Không nói dối, vì khi nói ra câu đấy họ thực sự nghĩ như thế. Chỉ có điều là còn một phần khác họ không nói ra, đôi khi vì họ cũng không hiểu được chính mình.
Anh sẽ yêu em mãi mãi ... nếu lúc nào em cũng ngoan ngoãn, thơm tho, nhàn rỗi ngồi nép vào bên anh thế này này, như thế, tất nhiên là yêu. Nhưng sau này em đầy mùi nước mắm với nước đái trẻ con, ăn mặc nhếch nhác, bụng béo đầy mỡ.... xin lỗi, anh không có ý lừa em, nhưng không hiểu sao anh... sorry.. tình cảm của chúng ta không như cũ nữa.
Cô gái khóc nức nở: Tôi đã hy sinh vì anh, tôi già, béo, xấu, bẩn cũng vì anh... thế mà anh lại...
Chồng (nghĩ thầm): Công nhận là em tốt, công nhận là em đúng. Nhưng mà điều kiện của tình yêu là phải thơm, sạch, mới, lạ. Bảo anh biết ơn em thì được, nhưng bảo anh run rẩy yêu em như ngày nào thì khó quá, cái này sao cố được.
Đàn ông khi yêu hay thích khẳng định mình, nói ra nhiều câu có chủ ngữ là ngôi thứ nhất: Anh thế này, anh thế khác... Các cô gái nghe say sưa, mắt chớp chớp miệng đớp đớp, tâm đắc ghê lắm. Mình yêu anh ấy quá, anh ấy bảo là... anh ấy hứa là...anh ấy là người.... Đến khi lấy về rồi, thỉnh thoảng lại nghẹn ngào, ôi mình bị lừa, ngày xưa nó nói dzậy mà bây giờ không phải dzậy.
Vậy kết luận ở đây là gì?
Nghe đàn ông tán cho vui thôi. Chủ yếu là phải nhìn xem anh ta làm được cái gì. Anh bảo anh lo được cuộc sống cho tôi, vậy phải xem anh có tháo vát, kiếm tiền được không. Anh bảo anh có trách nhiệm với tôi, vậy phải xem anh đối xử với bạn bè, người thân của mình thế nào. Anh bảo anh là người tốt, vậy phải xem anh có ghét chó và trẻ con hay không, vay tiền bạn có trả không...
Bạn nào yêu không mở to mắt ra mà nhìn, chỉ chết vì mấy câu văn hoa ba xu, đến lúc khổ lại đổ tại duyên số...xin mời xem lại nguyên tắc số 1.

6. NGUYÊN TẮC 6: ĐỨC TÍNH QUAN TRỌNG NHẤT CỦA CHỒNG? 

Tôi không nói là "đức tính quan trọng nhất của đàn ông", bởi vì mỗi người đàn bà cần đến đàn ông theo một nhu cầu riêng của mình. Có người mê đẹp trai, có người thích khỏe mạnh, có chị thích galant, có bà thích phong độ...tóm lại cái "nhất" đấy thiên biến vạn hóa, không sao tổng kết hết được.
Nhưng với vai trò làm chồng thì lại khác. Làm chồng tốt cũng cần nhiều tính chất khác nhau, lãng mạn, mạnh mẽ, giỏi giang, phong độ, tháo vát, thông cảm, bao dung, chăm chỉ... gi gỉ gì gi, cái gì cũng cần, cái gì cũng tốt. Nhưng tất nhiên là thật khó mà tìm được người hoàn hảo như vậy. Mà nếu có kiếm được, thì chắc bạn cũng chả đủ hoàn hảo để mà lấy được người ta. Thế thì, nếu như phải rút gọn, phải lựa chọn và quyết định trong những đức tính ấy, trong số những người bạn "có thể" lấy được, thì bạn sẽ lấy ai, lấy người như thế nào?
Hỏi đến đây, cả lớp đồng thanh: Lấy người yêu mình và mình cũng yêu, tóm lại lấy nhau vì tình ạ!!!
Cô giáo: Khổ quá, thế lúc chọn người yêu vậy, các em chọn ai, tìm người như thế nào?
Cả lớp: Yêu thì sao chọn được ạ, duyên số rồi, yêu mà biết tại sao yêu thì đã không phải là yêu ạ !!!
Cô giáo: %^&(&)#$@
Đùa vậy thôi, topic này mong được giúp đỡ những người nghĩ rằng lý trí cũng cần thiết trong tình cảm. Còn với các tín đồ của yêu mê muội, cưới mù quáng thì đến cô giáo cũng bó tay, nói gì đến tôi
Trở lại với câu chuyện đức tính quan trọng nhất của chồng, có lẽ cũng cần chú thích thêm để các bạn đỡ thắc mắc, ấy là quan trọng nhất không có nghĩa là duy nhất cần thiết, lại càng không có nghĩa đó là yếu tố đầu tiên cần được đưa ra xem xét (cái đầu tiên, theo tôi nghĩ, là tìm hiểu xem đối tượng có bị Gay, hoặc bất thường về sinh lý hay không). Quan trọng nhất có nghĩa là, sau khi chúng ta đã có được hai ứng cử viên trước mặt, cả hai đều nam tính, nội tiết ổn định, biết đọc biết viết, chỉ số IQ trên 60... nhưng một anh thì biết đánh đàn ca hát múa rối nước còn một anh thì có cái "quan trọng" ấy, vậy nên chọn anh nào?
Cái đức tính đó là khả năng tiếp thu, học hỏi, nhận thức những sai lầm, điểm yếu của mình và cố gắng sửa chữa chúng. Nói cách khác, đó là khả năng tự hoàn thiện bản thân. (Hồng thì gọi là self-awareness)
Nếu lấy một người chồng biết nhận ra khuyết điểm, dám nhận sai, sai dám sửa (không đảm bảo thành công 100%) thì các bạn có thể yên tâm là cuộc sống càng ngày càng tốt đẹp. Giống như bạn cưới một chiếc Kia Morning về nhà, mấy năm sau nó tự lên đời thành một chiếc Camry, rồi ít lâu sau lại trở thành một con Mẹc hoành tráng... thế có sướng không? Ngược lại, nếu lúc đầu lấy về một con Mẹc trông hoành tráng, rồi dần dần nó xuống cấp thành cái xe công nông thì thật tai họa.
Vậy khi chọn lựa, ngoài việc nhìn vào những gì đối tượng đang có, hãy để ý đến những gì đối tượng THAY ĐỔI trong quá trình quen biết, yêu đương, để ý đến cách anh ta tốt lên hay xấu đi xem anh ta có được khả năng tự hoàn thiện bản thân hay không. Nếu có, thì đấy chính là đức tính quan trọng nhất bạn cần ở chồng bạn.


Chương Một: Đặc Tính Tuổi Thiếu Niên


1. Tri Thức.
2. Ngôn Ngữ và Giao Tiếp.
3. Vấn Đề về Cảm Quan.
4. Hành Vi.
5. Kỹ Năng Cử Động.
Tóm Tắt.

Trong chương này ta nói về những đặc tính của hội chứng Asperger (Asperger Syndrome AS) và tự kỷ mà sẽ cho ảnh hưởng lớn lao trong tuổi thiếu niên. Có năm đặc tính là tri thức, ngôn ngữ và giao tế, cảm quan, hành vi và kỹ năng cử động. Bởi chứng AS là một trong các dạng của bệnh tự kỷ, những điều dưới đây áp dụng đúng cho cả thiếu niên tự kỷ và thiếu niên AS ít hay nhiều.
1. Tri Thức.
● Trí thông minh.
Người AS thường có trí tuệ từ trung bình tới trên trung bình. Quan niệm chung hay nối kết trí thông minh với khả năng học tập và làm việc, tuy vậy ai có trí thông minh cao không nhất thiết có nghĩa là họ làm được chuyện. Người ta phải có khả năng thực hiện mà ai có AS thường bị yếu kém về mặt này, nên chuyện hay thấy là thiếu niên có AS rành rọt về đề tài khoa học lại không thể làm xong bài cho về nhà, lo lắng khi thời biểu có thay đổi và gặp với khó khăn với chỉ dẫn có nhiều bước.
● Trưởng thành về tình cảm.
Mức trưởng thành về tình cảm của thiếu niên AS thấp hơn nhiều so với tuổi năm tháng của em, trong giai đoạn này có vẻ như em chỉ có sự chín chắn của trẻ bằng 2/3 tuổi của em. Sự trưởng thành thường được đo bằng hành động trong khi giao tiếp. Muốn thành thạo về tình cảm ta cần có thể cảm biết và hiểu những dấu hiệu khi tiếp xúc với người khác như cái nhíu mày, nhăn trán, cười, vẻ chán nản, cảm xúc v.v.; và ta phải có thể suy nghĩ rõ ràng về hành vi của mình cũng như hành vi của người khác. Thêm vào đó, sự trưởng thành còn có nghĩa là thuận theo những luật bất thành văn về giao tiếp và hành vi trong xã hội. Tất cả những mặt này gây nhiều khó khăn cho thiếu niên AS và tự kỷ, các em thường 'khờ khạo' hoặc 'ngây thơ', không hiểu những tương tác tế nhị giữa bạn bè hoặc biết cách hòa hợp vào chúng bạn.
Ở tuổi thiếu niên một số em bắt đầu cảm nhận là mình khác chúng bạn, thấy khó khăn trong việc hòa với bạn cùng tuổi. Ý thức này có thể dẫn tới chứng trầm cảm hay sầu não, và sẽ khó được khám phá nơi thiếu niên tự kỷ nào không biết nói hoặc có ngôn ngữ yếu kém. Hành vi có thể gia tăng hoặc em hóa khép kín, khiến cha mẹ phải diễn giải hành vi và môi trường chung quanh để tìm xem con muốn chi.
● Hiểu trí người (Theory of Mind TOM).
Khả năng này rất quan trọng trong tuổi thiếu niên. Trong cách đối xử với nhau ở trường, trẻ bình thường hay tỏ ra thản nhiên hoặc dửng dưng trong khi thực tế là em rất thích thú, hăm hở muốn biết chuyện. Để tỏ ra mình 'sành' việc, em chỉ gật nhẹ để chào bạn thân thiết nhất, làm như thiếu niên có ngôn ngữ bằng lời và không lời của riêng các em. Vì vậy, thiếu niên AS nào không biết ngôn ngữ này thường khi không hòa đồng với bạn trong lúc giao tiếp. Cách chào hỏi không đúng kiểu, không nhận ra dấu hiệu tế nhị của bạn cùng lớp, sẽ làm em lập tức bị tẩy chay mà phải khó khăn em mới được chơi trở lại. Và không phải thiếu niên chỉ cần nhìn ra ý của bạn bè, vì sáu hay bẩy thầy cô dạy em cũng đòi hỏi là em nhận ra ý muốn không lời của thầy cô trong lớp.
Sở thích của em cũng có thể khiến người khác thấy là em chưa trưởng thành. Nhiều em trong tuổi thiếu niên vẫn còn ham thích chơi những vật mà học sinh tiểu học chơi, như Pokemon, những trò mà bạn cùng tuổi xem là không thích hợp.
● Khả năng thi hành.
Thiếu niên AS gặp khó khăn về mặt này, có nghĩa em thấy khó mà dàn xếp, sắp đặt, tổ chức, đổi sự chú tâm từ việc này sang việc kia, và làm nhiều chuyện một lúc. Lên trung học và ở những lớp cao, bài làm thường là dài hạn gồm việc tìm tài liệu, nghiên cứu, viết luận văn. Để so sánh thì đa số học sinh đặt ra thời biểu giúp em làm xong việc vào ngày giờ đã định, nhưng thiếu niên AS thường không biết cách sắp xếp một công việc phức tạp. Em không biết chia việc lớn thành nhiều phần nhỏ dễ giải quyết, và đặt ra ngày giờ tương ứng. Thường thường em dành quá nhiều thì giờ để nói hoặc lo lắng về bài làm cần nhiều thời gian, mà không chịu khởi sự ngay. Em xem bài làm như là khối dự án khổng lồ không thể nào hoàn tất.
Biết cách giải quyết công việc có hệ thống cũng là chuyện gây vấn đề cho nhiều học sinh AS. Billy có bài nộp lâu về sau với đề tài là các vệ tinh, viết bài có ít nhất năm dẫn chứng trong đó có một hình. Em quyết định viết bài trước rồi đi tìm hình sau. Rủi thay, cách này khiến Billy phải làm lại bài vì em tìm hình không ra cho một vệ tinh mà em chọn. Đa số thiếu niên biết là phải đọc lướt qua đề bài để đoan chắc là mình có gồm những thông tin cần thiết. Trong thí dụ này, trẻ bình thường biết phải đi tìm hình của mình trước khi viết bài, để biết chắc là mình đã có hết mọi thứ cần dùng mà nếu không có, em sẽ soạn lại kế hoạch của mình.
Những khó khăn như vậy khi bắt đầu một việc lại chồng chất thêm với vấn đề tìm sự trợ giúp. Billy gặp việc khác với đề tài vệ tinh của em mà không biết giải quyết cho đúng. Khi quyết định dùng internet làm nguồn tài liệu, Billy dành ba tiếng đồng hồ để tìm chi tiết về vệ tinh, mỗi lần tìm chữ 'vệ tinh satellite' máy điện toán lại trưng ra thông tin về tiệm bán đĩa bắt sóng vệ tinh; em tìm như vậy bằng nhiều phương pháp khác nhau (search engines) trong một lúc lâu. Mãi tới khi mẹ hỏi bài làm tới đâu rồi thì Billy mới cho mẹ, hoặc là ai khác, hay rằng em không thể tìm tài liệu gì về vệ tinh trên trời. Tới lúc này thì mức lo lắng của em lên cao vì cố gắng tìm mà không thành công. Nếu mẹ không can thiệp, hẳn em sẽ tiếp tục việc tìm bằng cách thiếu hữu hiệu ở trên.
Đa số học sinh AS cũng gặp trục trặc về việc tổ chức. Em làm bài cho về nhà nhưng không thể tìm nó trong túi đeo lưng khi nộp bài. Em giữ tập và sách vở không có hệ thống, hoặc không biết quyết định là giấy tờ, tài liệu nào quan trọng hay không để hoặc cất giữ hoặc bỏ. Hơn thế nữa, thường khi em không có học cụ cần dùng trong lớp vì không thể tìm giấy bút, tập, viết.
Thay đổi hướng chú ý là khó khăn khác cho học sinh AS. Thí dụ em không biết hướng việc chú ý của mình từ chuyện làm xong bài sang việc lắng nghe thầy cô đưa chỉ dẫn mới cho cả lớp. Trong lúc Shana chép bài cho về nhà trên bảng vào tập, em không thể chuyển hướng chú ý để nghe thầy cô nói thêm chi tiết về bài tập. Em chỉ sẵn sàng để nghe sau khi đã chép xong bài. Vì lý do này, làm nhiều chuyện cùng lúc là việc khó cho học sinh AS, em cần làm xong một việc mới có thể bắt đầu một việc khác, và em khó mà để qua bên việc chưa hoàn tất để bắt đầu việc thứ hai.
● Giải quyết vấn đề.
Nhiều người mô tả kỹ năng giải quyết vấn đề của thiếu niên AS là lộn xộn. Khi em tìm hiểu điều gì là sở thích đặc biệt của mình thì em có thể biểu lộ kỹ năng cao về giải quyết vấn đề, nhưng với chuyện hằng ngày, thường khi em cho thấy kỹ năng thiếu hữu hiệu, hoặc có vẻ như thiếu kỹ năng hoàn toàn. Mặt khác, có em học được một cách giải quyết vấn đề rồi chỉ dùng cách ấy bất kể tình cảnh hoặc kết quả ra sao. Thí dụ nếu khóa cửa tủ cho học sinh ở trường không mở thì dù vậy, em sẽ dùng chuỗi số của khóa để thử mở hoài hủy không thôi. Đôi khi cách này cho kết quả nhưng nếu thử năm lần mà vẫn không mở được thì nhiều phần là cửa tủ có vấn đề khác. Các em không biết cách giải quyết vấn đề là nhờ người lớn hoặc bạn bè giúp đỡ khi gặp khó khăn, và có khi cần phải tìm cách khác.
Điều khác là không biết lượng xét thông tin hay cách thức vào đúng lúc làm cho việc giải quyết vấn đề càng khó khăn hơn. Tuy học sinh có thể nói làu làu những cách giải quyết vấn đề, và liệt kê nhiều trường hợp mà các cách này áp dụng được tức biết tổng quát hóa, em lại có thể không nhớ được cách nào khi cần. Tới lúc em ý thức là có vấn đề thì chuyện hay thấy là em bị hoang mang rối trí, giận dữ hoặc bị lạc hướng và phản ứng của em là hoặc nổi xung hoặc thu người lại không muốn tiếp xúc với ai.
Khả năng giải quyết vấn đề đặc biệt quan trọng trong chuyện học khi có liên quan đến những khái niệm trừu tượng. Do đó, thiếu niên AS thường gặp khó khăn với những vấn đề bằng chữ, ước lượng, đại số, và hình học – tất cả những điều này thường có tính trừu tượng cao.
● Tổng quát hóa.
Như đã nói, người AS hay gặp trục trặc khi áp dụng thông tin và kỹ năng vào khung cảnh khác nhau, người khác, cũng như là phối hợp kinh nghiệm và điều đã học. Học sinh có thể nhớ nằm lòng các dữ kiện, những bảng liệt kê như vậy thường chỉ là các mẫu thông tin rời rạc không kết nối lại với nhau thành điều có ý nghĩa. Nói rộng ra là em thiếu óc sáng tạo, không biết phối hợp những điều sẵn có thành một điều khác sâu xa hơn, hoặc mới lạ hơn, có ý nghĩa khác. Thầy cô thường diễn giải lầm việc không tương xứng giữa khả năng nói thông thạo và thiếu hành động như là hành vi cố ý không làm của học sinh AS, và như thế không nhận ra một đặc tính quan trọng của chứng AS.
Tình trạng hóa tệ thêm khi học sinh bị căng thẳng và lo lắng. Điều gì em biết thường không nhớ được khi có căng thẳng, những lúc ấy học sinh AS dễ quay trở lại hành vi trước đây nay không còn thích hợp nữa (như nóng nẩy đi tới lui, không chịu nghe chỉ dẫn và trả lời bằng câu 'Không bắt em làm theo vậy đâu', đánh trẻ khác). Rồi khi căng thẳng và lo lắng qua đi, khả năng có trở lại làm như có phép mầu, và hành vi cũng biến mất, nhưng tai hại đã xẩy ra – học sinh không có được câu trả lời đúng cũng như đã bầy tỏ hành vi không hợp làm bạn bè chọc ghẹo em.
● Sở thích đặc biệt.
Điều được nhận ra và bàn tới nhiều về người AS là những khả năng và sở thích riêng của họ, tuy nhiên họ không làm gì mấy để biến chúng thành kỹ năng sử dụng được trong đời hoặc có ứng dụng nghề nghiệp, như việc mê say về thời tiết có thể dẫn tới nghề nghiệp về khí tượng. Một lý do chúng ta ngần ngại không muốn có nối kết sở thích với nghề nghiệp, có thể là do ta thấy khó mà xác định là sở thích đặc biệt sẽ thành điều mê say hàng đầu và em không màng những chuyện khác, hoặc nó chỉ là sở thích thứ yếu, là động cơ thúc đẩy nhưng không làm em mê say hơn hết.
Sở thích của Marta là máy chụp bản sao (photocopy). Em biết hết mọi kiểu, mọi hiệu máy đang có và có thể tháo rời máy rồi ráp lại mau chóng, đó là điều em mê say. Nếu có ai nói 'máy chụp bản sao' là em mau lẹ nói về đề tài này, cuối cùng dẫn tới việc em cuống quít tìm một cái máy nào đó để thảo luận, và không chừng sẽ mở banh máy rời hết các phần. Cha mẹ và thầy cô phải tìm cách khuyên người khác đừng nói về đề tài này, để ngăn chặn hành vi của em.
Mặt khác, Harry có sở thích phụ về máy chụp bản sao. Tuy em thích nói về máy, em biết cách điều hòa hành vi của mình. Khi được cho biết giới hạn để nói về máy thì em theo được, chẳng hạn khi Harry làm xong bài trong ngày, em được cho giờ để tìm tòi về máy hoặc thảo luận chúng với bạn hay với người lớn. Khi hết giờ thì Harry dễ dàng chuyển sang phần việc khác.
Một lý do nữa cho việc tại sao sở thích đặc biệt thường không được khai triển ở trường là bản chất riêng biệt của chúng, có nghĩa khi muốn phát triển sở thích thì thường khi thầy cô phải thay đổi học trình và điều hợp sinh hoạt giữa các môn với nhau. Đó là việc mất rất nhiều thì giờ ở trung học, khi thầy cô có thể dạy 100 học sinh mỗi ngày. Khi khác, sở thích có thể không kéo dài, chỉ hiện ra trong một thời gian rồi sau đó mất dạng, nên không được xem là lý do để soạn học trình xoay quanh nó.
Thí dụ để khuyến khích Jerri dự vào một môn học, cô giáo soạn một đề tài học cho riêng em, dài chín tuần, về Ai Cập là sở thích đặc biệt của Jerri. Đề tài có tất cả những mục mà các học sinh khác phải hoàn tất trong thời gian này; nhưng chỉ mới học một tuần, Jerri quyết định là em không còn ham thích về Ai Cập nữa và động cơ không còn để em hoàn tất đề tài. Tới lúc này, bài làm trở thành điều bực bội em muốn tránh xa.
2. Ngôn Ngữ và Giao Tiếp
Nhiều thiếu niên AS nói rành rẽ, như phát âm rõ ràng và đặt câu đúng qui tắc, nhưng khả năng thực dụng khi giao tiếp lại nghèo nàn, cho ảnh hưởng bất lợi khi em muốn hòa đồng với người khác. Nó đặc biệt là vấn đề trong tuổi thiếu niên, vì giao tiếp với bạn bè thường là động cơ thúc đẩy chính trong lứa tuổi ấy. Giao tiếp thường là việc phức tạp, ở giai đoạn này nó có tính thật tế nhị và có chủ đích chính là hòa đồng với bạn cùng tuổi, hơn là tỏ ra trội hơn về việc học.
Học sinh được ưa chuộng khi em biết cách xử sự hợp với khuynh hướng của nhóm bạn, cho dù em có suy nghĩ khác; thế thì tuy John học giỏi, biết nhiều về môn học, em cũng hiểu là trong lúc trò chuyện với bạn không giỏi bằng mình và chẳng thích việc học hành, em không nên tỏ ra thông minh kẻo bạn bè sẽ coi em là con mọt sách. Thành ra John làm thinh, và mạnh mẽ đồng ý với bạn 'sành đời' của mình rằng 'đi học chỉ mất giờ'. Cùng lúc đó, John cũng biết bầy tỏ ý ham học của mình với thầy cô một cách tế
nhị. Em ít khi tự động giơ tay trả lời câu hỏi – vì sợ là bạn bè biết em thành thạo về đề tài – nhưng khi thầy cô hỏi thẳng em thì John luôn luôn có câu trả lời đúng. Bạn trong lớp biết là John học khá, nhưng vẫn thích chơi với em vì em biết cách tránh lộ ra sự giỏi dang của mình.
Học sinh AS làm như không hiểu cách liên lạc đơn giản và tế nhị này, và có thể phạm lỗi lầm nghiêm trọng là tình nguyện trả lời hết những câu hỏi nào mà em biết lời giải. Sai lầm này có thể tăng bội thêm khi em tỏ ra hào hứng với điều gì mà em biết câu trả lời đặc biệt. Học sinh khôn ngoan sẽ không hề giơ tay, múa máy trước mặt thầy cô và nói 'Em nè, thầy, xin gọi em !' Những khiếm khuyết về giao tiếp đặc biệt gây vấn đề cho thiếu niên AS gồm như sau:
● Không hiểu những dấu hiệu không lời như nét mặt, cử chỉ, khoảng cách giữa hai người và ý nghĩa của tia nhìn cùng thái độ.
Học sinh AS bị lỡ rất nhiều cơ hội giao tiếp vì em không 'nắm' được những phần quan trọng của việc liên lạc tỏ ý. Nó có nghĩa em thường không thể 'đọc' tức hiểu ra nét mặt, cử chỉ v.v. Johnny có AS, để ý thấy là Katie bạn cùng lớp thường hay nhìn về phía em và mỉm cười; em không nhận ra là những dấu hiệu ấy có thể muốn nói Katie thích mình. Tương tự vậy, Juan hay gặp khó khăn trong giờ khoa học vì không đọc ra được những dấu hiệu không lời của thầy cô. Thí dụ khi muốn cảnh cáo thì thầy cô 'nhìn' một cách khác lạ mà Juan không thấy hoặc không hiểu, và em không ngưng nói hoặc chịu lắng nghe như các bạn trong lớp, khi thầy cô nhìn như vậy.
● Không biết cách nói để khơi mào hoặc duy trì cuộc chuyện trò.
Tuy nói thao thao, học sinh AS thường không biết cách gợi chuyện với người khác, hoặc tiếp tục câu chuyện. Tình trạng hóa tệ hơn khi em bị căng thẳng và lo lắng. Mark và Craig đang đứng nói chuyện trong sân trường, Sean có AS đi tới và bắt đầu lắc lư qua lại, chờ dịp để dự vào việc chuyện trò. Lắc lư là dấu hiệu cho biết Sean muốn nói mà không biết khi nào hay cách nào để xen vào. Hệ quả là hai bạn tiếp tục làm ngơ dấu hiệu không lời của Sean muốn tham dự.
Người lớn có thể cho là thiếu niên AS biết liên lạc thành thạo. Đó là do người lớn không nhận ra họ đã bù đắp ra sao cho trục trặc mà thiếu niên AS gặp phải. Có nghĩa người lớn sẽ khoan dung với câu chuyện về đề tài không thú vị như nói về mưa bão, và lại còn hỏi thêm nhiều câu về chuyện này. Ngoài ra người lớn cũng có thích ứng về khoảng cách như tế nhị dịch ra xa một chút khi thiếu niên đứng quá gần, cho em có nhiều giờ để suy nghĩ hơn, và rộng lượng chìu theo khi học sinh không chịu đổi đề tài.
Khi môi trường trở nên phức tạp hơn, gồm nhiều người hơn, có tiếng ồn và những kích thích khác, kỹ năng ngôn ngữ (nói và hiểu) và giao tiếp của thiếu niên AS có vẻ hóa tệ dần. Thí dụ cô Mary hoang mang với kỹ năng không đồng đều của Tara về ngôn ngữ và giao tiếp. Trước giờ học lúc chỉ có hai thầy trò, Tara và cô trò chuyện về những chi tiết phức tạp về chuyện thần thoại Hy Lạp. Cô nghĩ là Tara tỏ ra hiểu chuyện và có kỹ năng giao tiếp giỏi. Tuy nhiên tới cuối giờ học, Tara không đưa tập để cô ký là em đã làm xong. Em có đi lên bàn giáo sư đứng chờ tới phiên mình đưa tập cho cô ký, nhưng các học sinh khác hỏi nhiều nên chưa tới lượt em, và rồi chuông reo hết giờ. Tara coi đó như là dấu hiệu tan lớp nên em bỏ đi, tập không có chữ ký vì em không biết cách chen vào cuộc nói chuyện.
● Có khuynh hướng diễn giải chữ hay câu theo sát nghĩa đen.
Thiếu niên AS thường khi suy nghĩ hết sức là cụ thể. Thầy cô đôi khi nghĩ sao em 'ngố' quá, do cách em xử sự trong lớp. Có hôm, thầy hỏi Tim em có giờ (đồng hồ) không, Tim đáp giản dị là 'Có' rồi ngồi im. Em không hiểu là ý thầy muốn hỏi mấy giờ rồi.
● Khó nhận biết là phải kể đến quan điểm của người khác khi trò chuyện.
Có vấn đề này trong việc này thường khi dẫn tới cuộc độc thoại chỉ có một mình thao thao mà không để ý là người nghe có lưu tâm hay không. Một nhóm bạn đang trò chuyện với nhau thì Lori, học sinh có AS, từ xa đi tới. Các em bảo nhau, 'Đừng nhìn về phía Lori hay nói chậm lại, bởi Lori sẽ bắt đầu nói về Ai Cập và xác ướp. Lori không biết là ai mà thèm nghe chuyện đó'.
● Không hiểu luật bất thành văn về nhiều điều trong cuộc sống, hoặc những luật ai cũng biết mà không hề có ai dạy hoặc nói cho nghe.
Nó gồm có nói cái gì và với ai, cách ăn mặc, cách xử sự và cách phân biệt việc giữa việc nói đùa nhẹ nhàng và ăn hiếp. Người trẻ có AS hoặc một mình làm chủ câu chuyện chỉ có họ nói và không màng tới ai có góp chuyện hay không, hoặc nói thật ít với người khác. Thêm vào đó, các em còn có cách nhấn âm khác thường, lập lại câu nói theo cách không thích hợp và lạc đề.
● Không ý thức là điều gì bạn nói với ai trong lúc trò chuyện bây giờ có thể ảnh hưởng cách người ấy tương tác với bạn về sau.
Nancy học trung học, nghĩ là mình đã giúp cho Maureen là học sinh bình thường, khi bảo Maureen là mặc áo sọc ngang làm thân hình bạn có vẻ phì mập. Nancy không có ý gây tổn thương cho bạn, em chỉ nói lên sự kiện theo em thấy, vì vậy em hoàn toàn ngạc nhiên khi hôm sau gặp nhau, Maureen nhìn một cách lạnh lùng và không đáp ứng với bạn.
Khi quan sát về đặc tính ngôn ngữ của người AS thì hai điều sau có biểu lộ khác nhau mà ta cần xác định:
- Em dùng ngôn ngữ để trình bầy thông tin, hay
- Dùng thông tin để tạo mối tương giao với người lớn ?
Thường thì em giỏi phần một và kém phần hai. Khả năng về ngôn ngữ còn được đo lường bằng những mục sau:
– Biết thay đổi đề tài
– Nói với người nghe hơn là nói cho họ nghe
– Chữ dùng phức tạp
– Tạo nên sự chú ý chung
Quan sát trực tiếp sự tương tác giữa người AS và bạn bình thường cùng tuổi là điều thiết yếu, để xác định kỹ năng trò chuyện tự nhiên của em. Tương tác với bạn có tính chất khác với khi trò chuyện với người lớn. Nó có nghĩa người lớn thường đi theo dẫn dắt của đương sự trong lúc chuyện trò, chờ cho em trả lời, rộng lượng nghe chuyện độc thoại dài dòng và thấy thú vị với cách đặt câu chỉnh đâu ra đó của trẻ. Với bạn cùng tuổi thì khác, chúng không chấp nhận câu chuyện một chiều chỉ nói điều người AS ưa thích, và người AS gặp nhiều vấn đề nhất khi tương tác với bạn cùng tuổi. Nói chung vấn đề về ngôn ngữ cho ra kết quả tai hại và cần được giải quyết.
3. Vấn Đề về Cảm Quan.
Nghiên cứu về AS và sự hòa hợp cảm quan có tính giới hạn, nhưng tài liệu ghi nhận là trẻ nhỏ và thiếu niên AS có trục trặc về cảm quan tương tự như trẻ tự kỷ, và thấy ở nhiều mặt như sẽ trình bầy chi tiết trong chương bẩy. Ở đây ta chỉ nói tổng quát là các em có phản ứng mạnh mẽ về thể chất, thấy đau đớn hoặc chán ghét với một số cảm giác. Thí dụ em có thể đâm ra bực bội hoặc lo lắng khi học sinh đi trong hành lang chạm phớt người em, vì sự sờ chạm làm em thấy khó chịu hoặc đau đớn. Đa số người bình thường có thể thích nghi, điều hòa phản ứng của mình với cảm giác bằng cách làm ngơ chuyện này và để ý tới chuyện khác. Tuy nhiên người AS không thể điều hòa, làm cho phản ứng của họ đối với cảm nhận hóa ra không tiên liệu được, dao động từ tình trạng này sang tình trạng khác, từ việc không có đáp ứng sang việc nhậy cảm quá độ.
Cảm quan còn ảnh hưởng đến vệ sinh cá nhân. Thiếu niên có thể nhậy cảm với mùi hoặc tính chất của một loại xà phòng hay thuốc gội đầu, và điều này khiến em không phát triển thói quen tốt về vệ sinh, như không chịu rửa tay với xà phòng hoặc tắm gội hằng ngày. Nếu em nhậy cảm ở da đầu thì có thể không muốn gội đầu thường xuyên; em khác có thể gặp khó khăn với việc đánh răng, do miệng là vùng nhậy cảm khác.
Với em nào có vấn đề về việc kiểm soát các cơ, nếu quá nhậy cảm với môi trường chung quanh như quá sáng, quá ồn, và ở trong thế giới của riêng em, thì thiếu niên có thể không cảm thấy thúc giục phải vào nhà vệ sinh, và khi nhớ ra thì có khi quá trễ. Mặt khác, cử động không khéo léo khiến em có thể chùi rửa không sạch; nếu có khuyết tật nặng thiếu niên có thể vẫn còn thích chơi với phân, một phần để tìm kích thích mạnh về khứu giác hoặc xúc giác. Khi khác, có thí dụ cho thấy thiếu niên với trí thông minh cao vẫn có thể chưa phát triển thói quen tốt về vệ sinh cá nhân ở tuổi này.
4. Hành Vi.
Có ba yếu tố chính ảnh hưởng đến hành vi của thiếu niên:
− Em bắt đầu có ý thức lờ mờ hoặc rõ ràng là mình khác chúng bạn.
− Lên trung học và lớn tuổi hơn, em bị đòi hỏi, chịu áp lực nhiều hơn về trách nhiệm do đó bị căng thẳng hơn.
− Cơ thể em thay đổi, kích thích tố tác động làm tâm tình cũng dao động mà em không biết tại sao, hóa ra lo lắng.
Khi xem xét những bài viết về sự căng thẳng và lo lắng nơi thiếu niên AS, ta không thấy ngạc nhiên với việc tính trầm uất lan tràn trong các em, cũng như con số thiếu niên AS có định bệnh trầm cảm cao đến mức báo động. Thường vào thời điểm này trong đời thì tính trầm cảm đầu tiên xuất hiện và có thể định bệnh được; để tìm xem tại sao bệnh này lại có nhiều nơi các em, có lý thuyết nói rằng chuyện xẩy ra vì thiếu niên ý thức rằng khác với bạn bè.
Thiếu niên AS có mức lo lắng và căng thẳng cao vì những lý do ta đã thảo luận ở trên, nhưng cách mà em biểu lộ sự căng thẳng có thể làm ta hiểu lầm. Thế nên chuyện quan trọng là những ai quanh em như cha mẹ, thầy cô, anh chị em, bạn bè, biết cách nhận ra dấu hiệu khi em bị căng thẳng. Khác với trẻ bình thường, thiếu niên AS có thể không lộ căng thẳng qua giọng nói, điệu bộ thân hình v.v. Vì những dấu hiệu của em tinh tế, thường khi xáo trộn lên tới mức khủng hoảng trước khi người khác có ý thức là
em bị bất an.
Không phải học sinh AS nào cũng có lộ các điều này, nhưng con số em có tật nằm ở mức đáng nói. Có nhiều lý do cho hành vi ấy, đặc biệt ở tuổi thiếu niên chúng đi từ việc không có thời biểu hằng ngày tiên liệu được, tới lòng sợ hãi làm không được chuyện, hoặc xấu hổ là không học giỏi. Môi trường xã hội cũng thúc đẩy dẫn tới các tật này. Thiếu niên AS nào rất muốn hòa hợp với bạn bè mà không thể làm được vậy (vì không biết ăn nói, ăn mặc, xử sự đúng cách), thường khép kín người lại hoặc lộ ra đáp ứng tiêu cực. Nó có thể là không chịu làm việc chung với học sinh nào đó, dùng chữ không hay với ai bắt nạt em, hoặc cô lập chính mình. Maria có AS trong lúc ngồi ăn trưa ở phòng ăn bị vài học sinh cùng bàn chọc ghẹo; để tránh em đi sang bàn khác ngồi một mình. Michael rất quan tâm đến vóc dáng bên ngoài và muốn chắc chắn là mình trông giống như những ai khác. Khi có bạn cười chê đôi giầy của Michael, em đâm ra nổi xung.
Đôi khi căng thẳng ở trường sẽ được xả ra ở nhà. Vì vậy nhiều cha mẹ thuật rằng con bị căng thẳng quá mức nên không hoàn tất bài làm cho về nhà, em cần giờ sau buổi học để dịu xuống và nghỉ ngơi.
Hành vi của học sinh không tự nó có và không liên hệ đến chuyện gì khác, không ngẫu nhiên xẩy ra. Chúng đều có liên kết với một lý do hay nguyên nhân nào đó. Vì thế hành vi là một hình thức liên lạc tỏ ý, và thẩm định hành vi là bước đầu tiên để soạn ra can thiệp hữu ích, dựa trên điều hành vi muốn bầy tỏ. Việc thẩm định gồm những bước sau:
− Xác định và mô tả hành vi của học sinh
− Mô tả khung cảnh và chuyện trước khi có hành vi
− Phân tích và đưa ra giả thuyết
− Soạn và áp dụng can thiệp về hành vi
− Thâu thập dữ kiện và phân tích sự hữu hiệu của việc can tthiệp.
Phần căn bản nhất để thẩm định là xác định và mô tả hành vi mà can thiệp sẽ nhắm vào. Khi xem xét hành vi của học sinh, điều quan trọng là mô tả hành vi để ai tiếp xúc với học sinh nhận ra được ngay. Bằng không, khi mô tả chung chung không rõ rệt thì không phải ai cũng nhìn thấy hành vi, và có thể không áp dụng cách can thiệp vào thời điểm thích hợp. Kế đó mô tả khung cảnh mà học sinh gặp khó khăn, lẫn khung cảnh mà không có hay có ít khó khăn cho em. Việc so sánh hai trường hợp thường cho ra manh mối về hành vi khó chịu và nguyên do của nó.
Cha mẹ và thầy cô của Neil lo ngại về việc em thường không chịu làm bài, và sau đó không hợp tác bằng cách gục đầu xuống bàn cho tới hết giờ, mỗi khi có bài kiểm môn Anh văn. Mọi người biết chắc là Neil hiểu rõ bài em đọc và đọc xong trước khi có bài kiểm. Sau khi xem xét, họ khám phá là hành vi này chỉ thấy trong giờ Anh văn; tìm kỹ hơn thì phát giác thêm là trong tất cả những lớp khác, bài kiểm có hình thức là trắc nghiệm chọn một trong nhiều câu trả lời, hoặc vấn đáp; trong khi đó bài kiểm Anh văn thường là làm luận. Manh mối này giúp cho ra câu đáp cho hành vi từ chối của Neil.
Thí dụ cho thấy là trước khi soạn ra can thiệp cho một hành vi, điều quan trọng là hiểu thông suốt môi trường mà hành vi diễn ra hoặc khó mà gặp, ít có.
5. Kỹ Năng Cử Động
Nhiều thiếu niên AS có kỹ năng cử động tổng quát (đi, chạy, nhẩy) và tinh tế (cắt bằng
kéo, cột dây giầy, viết v.v.) bị khiếm khuyết. Trục trặc về cử động tinh tế khiến em không thể viết để bầy tỏ hiểu biết thường là cao độ của mình về một đề tài nào đó, hoặc hoàn tất bài thi làm luận. Khó khăn tương tự cũng thấy trong lớp họa viên kỹ nghệ, đòi hỏi phải có mức chính xác rất cao hoặc cử động tinh tế khéo léo. Thay y phục trong giờ tập thể thao là thách đố khác cho người AS vì có vấn đề về cử động tinh xảo; thí dụ Lesley ngày nào cũng trễ giờ tập thể thao, vì em cần gấp đôi thời gian so với bạn bè để thay y phục.
Kỹ năng cử động tổng quát ảnh hưởng đến hình dạng bên ngoài, và cũng có thể ngăn cản việc tham dự vào sinh hoạt thể thao như ở phòng tập. Nhiều học sinh AS thường bị xem là vụng về, lóng cóng; hệ quả là các em luôn luôn được chọn chót hết khi chia đội chơi thể thao. Kỹ năng điều hợp cử động và thị giác cũng ảnh hưởng đến sinh hoạt ở trường. Victor có AS biết mình phải cẩn thận ngó ghế khi ngồi xuống, bởi em không giống như các bạn là chỉ cần cảm biết xem ghế ở đâu và không cần nhìn. Em học được điều này sau nhiều lần té khỏi ghế, bị học sinh khác cười nhạo hoặc bị thầy cô trách mắng. Chép bài trên bảng vào tập trong lớp cũng gây ra vấn đề. Học sinh AS thấy khó mà dòm từ bảng (thẳng đứng) rồi chuyển sang giấy (nằm ngang), chép lại chính xác trong thời gian giới hạn.
Tóm Tắt
Những đặc tính của chứng AS có vẻ như hóa tệ hơn trong khung cảnh phức tạp ở trung học. Nhiều cha mẹ nói rằng những chuyện của con xử trí được ở tiểu học trở thành đáng kể ở trung học. Tuổi dậy thì, cộng với thời biểu phức tạp hơn ở trường và thầy cô đòi hỏi học sinh có trách nhiệm nhiều hơn, bài vở trình độ cao hơn, làm học sinh AS không theo kịp cho dù em hiểu bài. Thêm vào đó, tật về hành vi hóa đậm nét hơn, cảm xúc tăng bội vì tâm tình thường đi từ thái cực này sang thái cực kia; rồi ta cũng phải kể đến ý thức không thoải mái cho lắm về người khác phái. Người AS đã có sẵn khó khăn là không hiểu được cảm xúc của chính mình, nay thấy sự việc càng rối trí thêm khi 'thích' một ai.
Đến tuổi dậy thì, những vấn đề về giao tiếp đâm ra nổi bật thêm lên. Giống như mọi thiếu niên khác, người AS muốn cha mẹ tránh xa, ít can dự hơn vào đời mình, nhưng đây là chuyện đôi khi bất khả. Bởi tuy thân hình trưởng thành thấy rõ nhưng nó không đi đôi với sự chín chắn về tình cảm. Trên thực tế, thiếu niên AS trong lứa tuổi này thường cần được giám thị nhiều hơn, vì diễn giải sai lầm những dấu hiệu lúc giao tiếp có thể làm tâm hồn tan nát, sụp đổ. Khi Jeff tin chắc là mình thích Ivy, em gửi cho bạn một chục bông hồng; trong trí của em làm vậy là đủ cho mối liên hệ bạn trai và bạn gái. Jeff gọi cho bạn hằng giờ mà không được trả lời, tuy thế em vẫn cho rằng Ivy là bạn gái thân thiết của em.
Những đòi hỏi phức tạp về chuyện học, hành vi, và giao tế trong tuổi thiếu niên sinh ra nhiều thử thách cho học sinh bình thường, đi từ việc sắp xếp những sinh hoạt sau giờ học tới việc hoàn tất bài cho về nhà, đổi lớp sau mỗi giờ học, và biết rành rẽ những ẩn ý khi giao tiếp. Khi thiếu niên tự kỷ gặp thử thách tương tự, nó được phóng đại nhiều lần hơn vì các đặc tính của chứng AS. Tới tuổi thì phải thêm vào đó yếu tố dậy thì, kết cục là thường khi các thiếu niên này bị lo lắng nhiều, trầm cảm, mà không có mấy kỹ năng cần thiết để đối phó với khung cảnh chung quanh em. Các em cần có quy củ và nhiều hỗ trợ để qua được những năm xáo trộn này, cũng như có sửa đổi như là cách để giúp
em thành người lớn hữu dụng và thích nghi với cuộc sống.
Trong những chương tiếp theo, ta sẽ trình bầy chi tiết những vấn đề hay gặp phải, và đề nghị cách đối phó.