Ngôn ngữ và trí tuệ

Gần đây, do kết qủa nghiên cứu và tìm hiểu về ngôn ngữ của một vài đồng hương hằng quan tâm đến tương lai của đất nước, đã xuất hiện và thành hình một nhóm cổ vũ cho việc thay đổi cách viết chữ Việt hiện thời. Chủ trương thay đổi của nhóm là đề nghị viết liền nhau những từ kép, có hai chữ hay nhiều hơn, và cần phải đi chung với nhau mới đủ nghĩa. Thí dụ như: lang thang, đơn âm, đồng ý, đại danh từ, v.v... Một trang mạng quy mô với cái tên cũng khá đặc biệt là VNY2K http://www.vny2k.com/VNY2K_Tintuc_Thoisu_Vanhoa_Vietnam.htm, đã dành riêng một khung nhỏ trên trang để phổ biến ý kiến, cùng kêu gọi tiếp tay ủng hộ của mọi người.

Riêng đối với trường hợp của người viết thì từ lâu vẫn thường tự hỏi: "Tại sao đa số các ngôn ngữ trên thế giới đều đa âm (polysyllable), trong khi chỉ có một số rất ít là có nhiều đơn âm (monosyllable), trong đó phải nhìn nhận tiếng Việt có nhiều nhất?". Và rồi như một chuỗi phản ứng dây chuyền, thắc mắc này lại đưa đến suy tư khác: "Tại sao các nước còn dùng ngôn ngữ có nhiều đơn âm như ở vùng Đông Nam Á lại là những nước nghèo nhất trên thế giới? Có cái gì liên hệ thật sự giữa ngôn ngữ và chậm tiến?"

Do từ tất cả những gì vừa nêu ra, cộng thêm vào là "nguyện vọng" muốn tìm cho ra câu trả lời, nên người viết đã bỏ thì giờ để tìm hiểu vấn đề. Nhờ vậy, kết quả sau một thời gian nghiên cứu, nhất là mới đây tình cờ tiếp xúc được với những vị chủ trương trang mạng nói trên, thì hình như người viết đã thấy rõ có sự liên hệ gián tiếp giữa "ngôn ngữ và trí tuệ", như sẽ được trình bày trong bài viết này. Dù sao, với tinh thần tôn trọng sự thật, thiển nghĩ những ý tưởng và con số phỏng chừng đưa ra trong bài có thể sẽ không chính xác, và cần được kiểm chứng lại bởi các chuyên gia có đầy đủ khả năng và phương tiện hơn, về các ngành nghề có liên hệ đến y khoa, tâm sinh lý, ngôn ngữ học, v.v...

Sau đây là tóm lược những ý chính trong bài khảo luận này.


Khái niệm về trí tuệ

Có lẽ trong quá trình tìm hiểu về con người, tất cả các nhà nghiên cứu trên thế giới đều đưa ra một câu hỏi chung: trí tuệ của con người là gì? Câu trả lời được chấp nhận bởi đa số, nghĩa là không bị phản đối nhiều, tuy có vẻ hơi thiên về triết lý: "Trí tuệ là khả năng của sinh vật con người duy nhất trên trái đất này, có thể tự khám phá và tìm hiểu về chính mình". Chẳng hạn như con khỉ không hề biết rõ nó là ai, mà chỉ biết nó khác với con người hay các loài thú vật khác; Và con khỉ cũng chẳng biết được con người hay con rắn khôn hơn nó(?), nên dĩ nhiên là nó sợ cả hai đối tượng như nhau, tùy theo hoàn cảnh! Trong khi đó thì con người biết được có thể có các giống vật khác ngoài vũ trụ thông minh hơn mình, hay ít nhất là tin có các Đấng thiêng liêng như Thượng đế tài giỏi quyền phép hơn!

Phương tiện cần thiết của trí tuệ chính là sự thông minh, hay nói cách khác, trí tuệ gần như là sản phẩm của sự thông minh, vì nếu không có thông minh tối thiểu nào đó thì trí tuệ cũng coi như bỏđi. Nhưng thông minh là gì? Mỗi người trong chúng ta lại có câu trả lời khác nhau, tùy theo sở học và quan niệm cá nhân. Có quan niệm cho người thông minh là người hiểu biết được nhiều chuyện hoặc là người có khả năng giải quyết đa số các vấn đề khó khăn; hay là người cótài phát minh sáng chế ra những điều mới lạ v.v... Tất cả các câu trả lời trên đều đúng, nhưng vì đúng quá nhiều, nên chưa có câu trả lời nào được coi là hoàn toàn. Tuy vậy, trong việc đi tìm một câu trả lời tổng quát, các khoa học gia cùng nhìn nhận có một mẫu số chung duy nhất của sự thông minh: Đó là trí nhớ.

Theo như phân loại của các chuyên gia, có tất cả ba loại trí nhớ. Thứ nhất là trí nhớ sinh hoạt (working memory), dùng ngay trong các sinh hoạt thường ngày như nói chuyện hay làm việc. Thí dụ như dùng để nghe giảng bài học hay để nhớ tên khách hàng trong lúc mua bán, và còn có tên khác rất quen thuộc là trí nhớ tạm thời hay ngắn hạn (short-term memory). Loại thứ hai là trí nhớ quy nạp (declarative memory), như cây chuối sau vườn nhà lúc còn bé, hay những bài học vỡ lòng. Đây là loại trínhớ dài hạn, còn được gọi là ký ức (long-term memory), rất quan trọng cho sự thông minh, được dùng rất nhiều trong lúc suy nghĩ, tính toán để quyết định làm gì, hay làm bằng cách nào. Sau cùng là trí nhớ thường trực (procedural memory), dùng để nhớ những động tác hay hành động có tính cách lập lại nhiều lần, và đôi khi có tác dụng gần giống như tính phản xạ tự nhiên. Thí dụ, như đi băng ngang qua đường, chúng ta tự động nhớ là phải nhìn cả hai bên trái và phải; hoặc đưa tay lên chống đỡ gạt đi nếu có vật lạ xâm phạm vào cơ thể.

Trước khi bắt đầu đi sâu vào chi tiết, người viết cũng xin xác định cho rõ để tránh sự hiểu nhầm, nếu có: trí nhớ chỉ mới là điều kiện "cần thiết", nhưng "chưa đủ" để bảo đảm có sự thông minh hay không. Nói cách khác, người thông minh cần phải có trí nhớ tốt, nhưng người có trí nhớ tốt chưa hẳn là người thông minh!

Vận hành của nghe và thấy trong não bộ

Sự thông minh nào bao giờ cũng phải cần có thời gian để học tập hay huấn luyện. Không hề có cái chuyện gọi là "Thông minh vốn sẵn tính trời" nào cả. Đó chỉ là cách nói bóng gió của văn chương thi phú mà thôi. Còn như nếu hiểu "tính trời" theo thực tế, thì chỉ có vấn đề thuộc về di truyền học. Nghĩa là cơ cấu não bộ của những đứa bé mới sinh ra đời tùy thuộc vào sự di truyền từ đời trước khá nhiều, và chắc chắn là không giống nhau về "phẩm" cũng như "lượng". Nhưng dù con người sinh ra như thế nào thì cũng cầncó sự giáo dục và huấn luyện mới có được trí thông minh, và dĩ nhiên bằng phương pháp nào thì cũng phải qua hai cơphận chính là mắt thấy và tai nghe. Xin bắt đầu bằng "nghe" trước:

Ấm thanh từ màng nhĩ sẽ được chuyển vào "vùng thu âm sơ khởi" (primary auditory area, số 1), tại đây quyết định giữ lại tín hiệu nào cần và không cần. Tất cả tín hiệu trong vùng số 1 nói trên chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn, và sẽ mất đi sau thời hạn khoảng chừng hai giây, nếu không được xử dụng sau đó.

Tiếp theo, các tín hiệu sẽ được chuyển vào trung tâm xử lý, còn gọi là trung tâm Wernicke (số 2). Ngay tại đây tín hiệu sẽ được xử lý và đổi qua ngôn ngữ riêng của não bộ, một hình thức ngôn ngữ có thể phỏng đoán tương tự như dạng mã số (digital coding) của máy vi tính, tuy chưa có ai biết rõ như thế nào.

Sau khi xử lý xong, biết phải làm gì rồi, thì tín hiệu mã số sẽ được chuyển qua vùng Broca (số 3), coi như chỗ phát xuất mệnh lệnh cho vùng cơ năng (motor area) (số 4), rồi từ đó sẽ truyền lệnh chi tiết ra cho giác quan, hay chân tay để thi hành mệnh lệnh. Đồng thời, cũng do từ quyết định của trung tâm xử lý, mã số đó cũng có thể được sao chép và lưu giữ tạm thời trong các vùng não xung quanh (Parietal lobes), hay chuyển lên vùng thùy não (Frontal lobes) đóng vai trò bộ nhớ thường trực, ở những vị trí của tế bào nhớ còn trống chỗ gần nhất.

Sau một vài giờ hay vài ngày, các mã số mà bây giờ có thể gọi là ký ức (hay trí nhớ) sẽ bị mất dần theo thời gian nếu cường độ quá yếu. Ngược lại sẽ giữ rất lâu, nếu cường độ vẫn còn rất mạnh do chủ nhân vô tình hay cố ý ghi nhớ "suốt đời". Nên nhắc thêm đây, khi muốn nhớ lâu một vấn đề gì, chúng ta thường ôn lại hay nghĩ tới nó nhiều lần. Chính nhờ ôn lại nhiều lần như vậy đã làm tăng cường độ của mã số trong bộ nhớ, giống như ta dùng bút vẽ tô đi tô lại nhiều lần để làm cho nét vẽ đậm ra. Trường hợp vô tình là do một biến cố quan trọng nào đó xảy ra ngoài ý muốn. Giả sử trường hợp bộ nhớ không còn chỗ nào trống, thì các tín hiệu mã số vào sau sẽ dùng luật thiên nhiên "mạnh được yếu thua", chiếm đóng và dĩ nhiên là xóa đi mã số cũ, giống như việc thu chồng lên hay xóa đi băng nhạc cũ.
Tương tự như trên cho hình ảnh hay thị giác, bắt đầu bằng những tín hiệu hình ảnh từ võng mô của mắt, được chuyển đến "vùng thu hình sơ khởi" (Primary visual area) nằm phía sau ngay trên ót (số 5), và được chọn lọc trước khi đưa qua cho vùng "Thông dịch" (người viết gọi tên theo nhiệm vụ, tên Y khoa là Angular gyrus, số 6). Vùng này có nhiệm vụ đặc biệt giống như bộ từ điển là đổi các tín hiệu hình ảnh ra thành mã số của ngôn ngữ hay tiếng nói. Đây là chi tiết rất quan trọng của ngôn ngữ mà chúng ta ít để ý: Tất cả các hình ảnh và ý tưởng đều phải được chuyển qua dạng mã số tín hiệu của ngôn ngữ, trước khi được xử lý! Thí dụ, khi nhìn thấy "cái máy bay" trên trời, thì tín hiệu hình ảnh đó sẽ được chuyển vào vùng nói trên, và lập tức sẽ được thông dịch cho ra mã số của âm thanh tiếng nói và kế tiếp là hàng chữ "cái máy bay" trong đầu, trước khi chuyển qua cho vùng Wernicke (số 2) xử lý.

Tóm lại, ký ức hay trí nhớ, dù là từ hình ảnh, âm thanh hay mùi hương thơm v.v. sẽ được giữ lại và để dành đâu đó trong não bộ dưới dạng chính là mã số của ngôn ngữ. Trung tâm Wernicke (số 2) đóng vai trò chủ chốt để xử lý các mã số ngôn ngữ đó, cũng như quyết định lưu giữ lâu dài hay bỏ qua cho quên và tự xóa đi. Theo tài liệu tham khảo 2, trung tâm Wernicke có thể chứa một lúc trung bình là 7 sự việc khác nhau để xử lý, trong vòng một phút là tối đa, và sẽ bị mất nếu không dùng đến! Chính vì các yếu tố quan trọng nói trên, cho thấy nổi bật vai trò của ngôn ngữ đối với trí nhớ nói chung, trí tuệ hay sự thông minh nói riêng, mà người viết sẽ đưa ra minh chứng cụ thể trong các trang kế tiếp sau đây.

So sánh hai cách viết tiếng Việt

Khả năng thu nhận kiến thức

Chúng ta đã biết rõ ngôn ngữ là một quy ước về âm thanh để con người giao tiếp với nhau trong xã hội. Ngay từ lúc còn bé tập nói, chúng ta đã được dạy (hay huấn luyện) tiếng Việt từng chữ một, và đọc hay nói từng âm một, nên thành thói quen. Từ đó, não bộ của chúng ta cũng đã được huấn luyện "quen" xử lý giống như vậy, sẽ chừa một khoảng trống sau khi tiếp thu một âm, giống y như chừa một khoảng trống giữa hai chữ Việt khi đánh máy.

Trong phần này người viết sẽ dùng một "thí nghiệm" tương đương để so sánh, và phỏng đoán mức độ khác nhau về số lượng thông tin tối đa, tiếp thu được giữa hai cách viết tiếng Việt. Giả sử là các tín hiệu của ngôn ngữ cũng có dạng gần giống hay tương đương với tín hiệu máy vi tính.

Dùng một đoạn văn tiếng Việt viết rời như hiện nay, sau khi sao lại và bỏ vào hồ sơ tên là A. Mở hồ sơ thứ hai tên là B, và dùng đề nghị sửa đổi cách viết tiếng Việt 2020, để nối lại những danh từ và động từ kép (hay những từ cần có hai chữ mới đủ nghĩa, như bài viết này làm thí dụ 3). Để tránh những sai số quá lớn do ít "Bytes", người viết đã sao lại đoạn văn trong hồ sơ A thành nhiều lần cho tới con số là 250, vừa đủ một trăm trang. Cũng làm tương tự như vậy cho hồ sơ B, sao lại thành gấp 250 lần, và chỉ chiếm có hơn 94 trang. Kết quả cho thấy cách viết nối liền chữ tiết kiệm được khoảng 5% dung tích, hay khoảng trống chứa thêm dữ kiện thông tin.

Nói một cách khác cho cụ thể hoá vấn đề, nếu giả sử có hai anh em sinh đôi A và B, với cấu trúc não bộ gần như hoàn toàn giống nhau, đọc hai hồ sơ theo hai cách viết khác nhau như trên trong cùng một thời hạn, thì B sẽ có khả năng tiếp thu nhiều dữ kiện hơn A đến hơn 5%. Một chi tiết nên biết là hai vùng tiếp thu tín hiệu sơ khởi của nghe (số 1), và thấy (số 5), đều bị hạn chế về dung tích hay số lượng, và thời gian lưu trữ tín hiệu chỉ trong vòng 2 giây.

Khả năng xử lý kiến thức (hay học hỏi)

Bây giờ xin nói đến ảnh hưởng của ngôn ngữ trong sự học, hay khả năng tiếp thu và giữ lại những hiểu biết do từ ngũ quan đưa lại, trong phạm vi chính được giới hạn bởi hai động tác nghe và thấy.

Có thể đây là một trùng hợp ngẫu nhiên, nếu so sánh giữa cách xử lý của máy vi tính và não bộ con người. Cả hai bên có rất nhiều điểm gần giống nhau như rập khuôn! Tuy nhiên, theo nhận xét của người viết thì chẳng có gì là ngẫu nhiên cả, vì con người đã cố tình chế tạo ra máy vi tính theo đúng hay rập khuôn lề lối suy nghĩ của não bộ. Bởi vậy nên mới có những nghiên cứu về "thông minh nhân tạo" (artificial intelligence).

  • Lấy thí dụ trên của em A trước, và giả sử A nghe thầy nói "Trường đại học" theo cách nói hiện giờ. Do bởi được "huấn luyện" ngay từ nhỏ, tiếng Việt nói theo đơn âm từng chữ một, nên khi các tín hiệu của 3 chữ trên được đưa vào vùng xử lý số 2 (Wernicke), cũng phải bị ngăn cách ra thành 3 âm riêng. Sau đây là diễn tiến đơn giản nhất để giải thích việc xử lý ngôn ngữ, giống như một đoạn phim được chiếu lại thật chậm:
Mã số tín hiệu "Trường" vào trước sẽ được đưa vào bộ nhớ để kiếm. Sau khi kiếm gặp rồi thì não bộ cho thấy chưa đủ nghĩa! Trường...gì?
Phải lấy thêm! Lập tức chữ "đại" được đưa vào tiếp theo thành "Trường đại". Vẫn chưa rõ nghĩa (vì bộ từ điển trong não không có nghĩa nào cho hai chữ "Trường đại" cả!)
Phải lấy thêm! Chữ "học" đưa vào nhập thành "Trường đại học". A! Đúng mã số cho ra nghĩa rồi! Ngay lập tức trong đầu của A sẽ xuất hiện hàng chữ "Trường đại học" (nên nhớ là cho đến thời điểm đó A chỉ nghe có tiếng nói mà thôi), và liền theo sau hình ảnh của một khu trường học có nhiều người lớn hơn A đi học sẽ chớp lên đâu đó trong tiềm thức, giúp cho A hiểu nghĩa luôn. Hình ảnh mà A thấy được, với chữ viết và tiếng nói, là do những gì em đã được "dạy" lần đầu, hay do sự "hướng dẫn chỉ bảo" và đã được ghi trong bộ nhớ. Dĩ nhiên, là hình ảnh "Trường đại học" của một em sinh ở Sài Gòn chắc phải khác với em sinh tại Cali!
  • Bây giờ xét đến trường hợp của B. Giả sử em được "huấn luyện từ nhỏ" theo cách viết mới, nối liền nhau những từ kép hay một nhóm chữ. Vùng số 2 của B chỉ "bắt đầu" xử lý khi các mã số đưa vào bị gián đoạn bởi một khoảng trống. Như vậy, chỉ khi nào ba tín hiệu "Trường đại học" vào hết rồi, thì vùng số 2 của B mới ra lệnh "cho phép" chạy đi tìm từ điển, và mọi thủ tục về sau cũng giống y như là của A. Kết quả cho thấy, dù tất cả các xử lý của não bộ nhanh gần như với vận tốc ánh sáng, nhưng thực tế thì A bao giờ cũng xử lý hay tiếp thu sự hiểu biết chậm hơn B. Một thí dụ cho dễ hiểu, nếu các nhà hàng để ba vật dụng là dao, muỗng, và nĩa chung nhau trong cái khăn, thì chắc chắn sẽ giúp cho người chạy bàn tiết kiệm thời gian rất nhiều, thay vì phải lấy từng cái một.

Tương tự như vậy cho khả năng nhìn thấy, và yếu tố quan trọng nhất là việc đọc sách (hay học bài). Tuy về hình ảnh không có chừa khoảng trống như ngôn ngữ, nhưng như đã nói ở trên, tất cả hình ảnh nhìn thấy cũng phải được chuyển qua mã số ngôn ngữ của não bộ trong vùng số 2 để xử lý! Vậy là cuối cùng nhịp độ xử lý về thị giác của A cũng chậm hơn B theo tỷ lệ giống như của thính giác.

Kết quả so sánh giữa hai cách viết

Trong phần trình bày trên chúng ta đã có dữ kiện để biết sơ qua về cách thức xử lý tín hiệu thông tin của não bộ, cũng như thấy rõ có sự khác nhau về mức độ nhanh chậm của hai cách viết. Phần sau đây sẽ tiếp tục phân tích chi tiết và đi sâu vào vấn đề ảnh hưởng của ngôn ngữ đối với trí tuệ.

Ở hai vùng tiếp thu sơ khởi nghe và thấy, chúng ta đã biết có sự khác nhau về số lượng tín hiệu tiếp nhận, ước chừng là 5% do khoảng trống của cách viết rời hay đơn âm, so với cách viết nối liền hay đa âm. Nhưng dám chắc chưa quan trọng cho bằng ở vùng số 2 (Wernicke), nơi xử lý các tín hiệu và cũng là chủ đích của bài viết này. Vận tốc hay nhịp độ xử lý nhanh hay chậm ở vùng này mới là điều đáng nói, vì ngay cả người viết khi tìm hiểu ra, cũng phải ngạc nhiên trước những hậu quả thật sự nghiêm trọng của vấn đề.

Do từ cách xử lý khác biệt của hai cách viết A và B, nên thời gian dùng để hiểu lời nói hay đọc sách của A sẽ lâu hơn B. Lâu hơn bao nhiêu? Muốn biết, hãy thử làm một thí nghiệm khác để ước lượng thời gian thu nhận kiến thức giữa A và B.

Dùng đoạn văn ngay phía trên, bắt đầu bằng "Ở hai vùng tiếp thu sơ khởi... nghiêm trọng của vấn đề". Trong tổng số 117 chữ, có tất cả 37 cặp chữ viết liền nhau. Như vậy nếu não bộ của A phải đi "tìm từ điển" 117 lần, thì B chỉ cần đi tìm 80 lần. Tỷ lệ giữa 37/117 cho ra khoảng 31%. Tỷ lệ này được điều chỉnh và giảm bớt khoảng 5-6 %, do thời gian nhận mã số ngôn ngữ đa âm lâu hơn đơn âm một chút, tuy rất ngắn so với thời gian xử lý. Còn lại khoảng chừng 25%. Con số này cho thấy phỏng chừng trong cùng một thời gian, trung bình não bộ A chỉ xử lý 3 sự việc, trong khi B có thể xử lý đến 4 sự việc!

Thí nghiệm kiểm chứng

Người viết có thêm một thí nghiệm cụ thể sau đây để kiểm chứng lại những gì đã nói ở trên. Dùng đối tượng cho thí nghiệm là nhờ bất cứ một người nào cũng được, và chỉ yêu cầu đối tượng nhớ một dãy số được ghi ra trên tờ giấy, trong vòng giới hạn thời gian là từ 3-5 giây. Thí nghiệm này gồm 2 phần A và B, và cách nhau ít nhất vài giờ hay một ngày, như sau:

Phần A: Ghi xuống giấy khoảng 8 con số như: 3 6 9 2 5 8 4 7. Sau khi canh chừng đồng hồ rồi thì đưa ra cho đối tượng xem trong khoảng 3-5 giây để nhớ. Sau thời hạn chấm dứt, yêu cầu đối tượng nói lại những con số vừa nhớ. Thí nghiệm trên được lập lại từ 3 đến 5 lần, với các số khác nhau. Xin ghi nhận số lần đối tượng nhớ đúng cả 8 số theo thứ tự như trên. Giữ lại kết quả tờ giấy, và chờ khoảng vài giờ hay qua ngày hôm sau, cho đối tượng quên hẳn đi.

Phần B: Cũng ghi xuống giấy khác những số trong phần A, nhưng ghép hai số kế bên nhau lại thành cặp: 36 92 58 47. Cũng cho đối tượng từ 3-5 giây và sau đó yêu cầu nói lại. Lập lại cùng một số lần thí nghiệm như A.

Kết quả nhận xét: Dám chắc rằng đối tượng sẽ nhớ đúng nhiều lần hơn trong thí nghiệm B, nếu so sánh với A. Lý do giải thích là hai thí nghiệm trên mô phỏng giống như hai cách viết tiếng Việt. Trường hợp A, vì đối tượng phải đọc từng con số nên sau 3-5 giây chỉ kịp nhớ thoáng qua mà thôi, và không có thời giờ để ôn lại, nên dễ quên. Ngược lại cho trường hợp B, đối tượng nhìn vào thì tự nhiên chỉ thấy có 4 lần để đọc và nhớ, vừa lẹ hơn nên có thời gian ôn lại trước khi hết thời hạn (thí nghiệm này chỉ nên dùng cho ai chưa biết gì, và chỉ một lần mà thôi).

Thật ra, thí nghiệm trên chỉ là một "mẹo vặt" để nhớ một dãy số khi cần, như bảng số xe hay số điện thoại, nhưng vô tình lại trùng hợp với những lý do cho thấy công dụng của cách viết nối liền hai chữ với nhau. Nếu để ý, thì thấy ngay người Mỹ cũng thường có thói quen áp dụng như trên, nhất là thích dùng chữ viết tắt (acronym). Thí dụ năm sinh là 1999 thì họ nói là 19 99, để tiết kiệm thời gian. Biết đâu đó là sản phẩm tự nhiên của trí thông minh!

Não bộ của Einstein

Một trong những khoa học gia có may mắn xin được một chút mẫu "não bộ" hiến tặng cho thế giới khi Einstein qua đời, là bà Marian Diamond, giáo sư tại Berkeley 4. Bà cùng các đồng nghiệp đã nghiên cứu mẫu não của Einstein, và công bố một chi tiết đáng chú ý như sau:

Trong vùng số 9 (frontal lobe, tức vùng thùy trán), và vùng số 39 (parietal lobe, vùng bao gồm trung tâm Wernicke, số 2 trong hình), tỷ lệ của số dây thần kinh (neuron) đối với tế bào truyền (glial cell) của Einstein, cao hơn khá nhiều nếu so với 11 người đàn ông sống khoảng trung bình 64 tuổi, tuổi thọ của Einstein, và có trí thông minh bình thường. Bà giáo sư đã kết luận đó là bằng chứng cho thấy hai vùng não bộ trên của Einstein đã làm việc nhiều và mau hơn người bình thường, và có thể giải thích phần nào lý do tại sao ông thông minh hơn người!

Hệ quả của vấn đề

Dám chắc sau khi biết được các con số sai biệt trên, có người sẽ cho rằng việc gì mà phải lo, càng chậm càng khỏe, đường nào cũng đi tới La Mã! Câu trả lời, đây không phải là vấn đề về thể xác như đi chơi hay chuyện ăn mặc. Đây là vấn đề thuộc trí tuệ hay sự thông minh, chậm ở đây sẽ là đồng nghĩa với kém thông minh, và đôi khi có thể lâm vào trường hợp giống như các pha đấu súng trên màn ảnh, chậm là chết! Sau đây là những minh chứng cụ thể cho lập luận vừa nói trên:

Chúng ta đã biết vùng số 2 đóng vai trò trung tâm xử lý các tín hiệu thu nhận từ cả hai vùng nghe và thấy. Đặc điểm chính của vùng này là chỉ có khả năng chứa một số lượng giới hạn tín hiệu trung bình tương đương với 7 sự việc, và thời gian lưu trữ tín hiệu khoảng chừng một phút. Do đó các trường hợp sau đây thường xảy ra:

Giả sử A và B cùng nghe hai thầy giảng bài trong lớp, theo hai cách viết (hay nói) khác nhau, với nhịp độ là 4 hệ luận chứng minh cho một bài toán. Nếu B vừa nghe kịp và ghi xuống cả 4, thì A sẽ chỉ kịp nghe và ghi xuống có 3 hệ luận mà thôi, coi như A chưa ghi kịp bài học. Trường hợp này thường xảy ra rất nhiều, nhất là khi đang học mà bị chia trí vì chuyện khác ở bên ngoài chen vào. A bị coi như là kém thông minh hay chậm hiểu. Nếu trường hợp thầy giảng bài chậm hơn vừa đủ cho A hiểu, thì B sẽ có dư thời giờ để lập lại trong đầu và nhớ lâu hơn, trong khi A có thể hiểu nhưng dễ quên nếu không chịu học thêm ở nhà. Đằng nào thì B cũng có ưu thế hơn hẳn A, kể cả khi đọc sách. Chắc các vị cao niên còn nhớ tại sao thời xưa, khi phương tiện ấn loát bài vở còn thiếu thốn hay chưa có, việc học hành gặp khó khăn rất nhiều, vì ít ai có thể nghe thầy giảng bài mà hiểu liền. Một phần cũng bởi do vô tình vùng số 2 của quí vị đã quen xử lý chậm, do những từ đơn âm của tiếng Việt (xin nhắc lại, người viết chỉ nói chung cho tập thể, không kể đến những cán nhân xuất sắc).
A bị chậm hơn khoảng 25% đã là thiệt thòi, nhưng nếu A phải lâm vào trường hợp gọi là bị "mất trí tạm thời" sau đây còn tệ hại gấp bội. Do phản ứng tự nhiên, thí dụ nếu vùng số 2 của A chỉ có khả năng xử lý 3 sự việc trong vòng 1 phút, thì vùng số 2 của A sẽ chỉ chịu nhận một lượng tín hiệu tương đương từ các vùng tiếp thu sơ khởi. Và như vậy, nếu vô tình vì một biến cố quan trọng nào làm trở ngại, chắc chắn sẽ xảy ra hiện tượng tín hiệu bị ứ đọng và "xóa mất" ở vùng số 1 và số 5, vì thời gian lưu trữ tín hiệu của các vùng sơ khởi chỉ có khoảng 2 giây (theo ngôn ngữ máy vi tính cho là bị phá hỏng hay "crash"). Giống y hệt như cảnh cả ngàn xe bị kẹt cứng ở xa lộ, chỉ vì có một xe bị hư máy phải chậm lại ở phía trước, trong khi số lượng xe ở phía sau vẫn tiếp tục chạy đến thật nhanh! Hiện tượng trên theo tâm lý còn gọi là bị "sảng hồn", hay nhẹ hơn là "quýnh quáng" không còn biết phải làm gì khi gặp cơn nguy biến, và những người càng "kém thông minh" thì càng dễ gặp. Dĩ nhiên, B cũng có thể bị như trên, nhưng chắc là ít hơn.
Trong suốt cả đời người không thể tránh khỏi những khoảng khắc đối diện với tai họa hay nguy biến đang xảy đến. Thí dụ như đang lái xe giữa đường gặp phải con chó chạy ngang, hay bị kẻ bất lương hăm dọa v.v. Trong tích tắc chớp nhoáng của thời gian suy nghĩ cách giải quyết vấn đề đó, chậm suy nghĩ là có thể nguy đến tính mạng! Gặp những trường hợp nguy hiểm như trên, những người có vùng số 2 tốt có thể thấu hiểu ngay tình hình (đồng nghĩa với thông minh lanh lợi) thường giữ được bình tĩnh đối phó và có nhiều cơ hội thoát hiểm hơn là những người bị "quýnh quáng" mất bình tĩnh gây ra như trong trường hợp 2.
Trong các cuộc hội họp hay thảo luận của người Việt thường xảy ra cãi vã, làm rối loạn trật tự do việc chẳng ai chịu nghe ai nói cả! Trừ một số những trường hợp có dụng ý hay chủ trương phá hoại, có ai ngờ rằng một phần nguyên nhân làdo vùng số 2 của các tham dự viên có vấn đề! Đây còn gọi là hiện tượng bị "chảy tràn" của trí nhớ ngắn hạn. Thí dụ, Diễn giả hay ông X có khoảng 4 vấnđề để trìnhbày, nhưng vùng số 2 của ông Y chỉ có thể xử lý hay tạm thời lưu trữ được tối đa là ba sự việc. Vì vậy nên khi ông X sắp tiếp tục vào vấn đề thứ tư, thì bị ông Y cắt ngang để xin phát biểu ý kiến phê bình nhắm vào 3 vấn đề vừa trình bày. Lý do, vùng số 2 của ông Y đã chứa tràn đầy các tín hiệu xử lý và đáp ứng, nếu nhận thêm tín hiệu mới vào sẽ xóa đi mất cái cũ. Phản ứng báo động "khẩn trương" trong tiềm thức cho biết không thể nhận thêm tín hiệu từ vùng số 2 được phát ra, làmcho ông Y phải quyết định lên tiếng phát biểu, dùcó biết rằng không nên làm như vậy! Kết quả thường xảy ra, Ông X sẽ phản đối vì bị cắt ngang, nhưng ông Y thì cứ thao thao xổ ra cho hết ý kiến, vì sợ để lâu sẽ quên đi! Nặng hơn nữa là trong khi đối thoại, vì trí nhớ ngắn hạn bị "chảy tràn", ông Y sẽ phản ứng tiêu cực bằng hành động không muốn nghe nói thêm gì nữa, và coi như là chấm dứt cuộc đối thoại!

Cộng đồng hay đoàn thể từ đó sẽ mang mầm mống của chia rẽ và hiềm khích(!?). Đó có thể là một trong những lý do chính, và cái giá phải trả vì do bệnh kém trí nhớ mà ra, nhưng có lẽ ít người hiểu rõ được nguồn gốc của vấn đề.

Trở lại trường hợp so sánh của A và B, vì B có khả năng tiếp thu xử lý nhiều kiến thức hơn, nên có nhu cầu cần dùng nhiều tế bào bộ nhớ. Nếu A và B còn nhỏ tuổi và não bộ đang phát triển mạnh, thì chắc chắn bộ nhớ hay dung tích não bộ của B sẽ phát triển mạnh hơn A, theo đúng luật cung cầu trong thiên nhiên. Đó là "hiện tượng" tạm thời trong một thế hệ. Nếu cứ tiếp diễn mãi qua nhiều thế hệ, thì nó lại trở thành "bản chất" theo di truyền. Luật di truyền học này có thể được giải thích giống như câu nói chúng ta thường nghe " Con quan thì lại làm quan,...". Cụ thể minh chứng điều vừa nói là dân cư ở thành thị thường "lanh lợi" hơn ở nông thôn, vì nhờ tai nghe mắt thấy nhiều chuyện hơn, một hình thức trực tiếp huấn luyện não bộ do môi trường sinh sống mà ra.

Một dữ kiện đưa ra với sự dè dặt vì cần kiểm chứng lại, hình như "chỉ số trán" nói chung của người Việt thấp hơn so với trung bình của cả thế giới. "Chỉ số trán" này là tỷ lệ giữa khoảng cách từ chân tóc đến chỗ hai hàng mi mắt giao nhau, chia cho khoảng cách từ chân tóc đến cằm. Biết đâu nguyên nhân chính là từ ngôn ngữ mà ra(?), vì chỉ số này ít tùy thuộc vào việc dinh dưỡng hay chủng tộc. Mới cách đây vài tuần, các nhà nghiên cứu y khoa của viện Rotman, Toronto 5, đã phát hiện và khẳng định rõ phần não bộ to bằng trái bida, ở phía trên đỉnh đầu thuộc vùng trán, đóng vai trò của bộ nhớ "dài hạn" 6. Nhớ lại, chẳng phải là ngẫu nhiên mà khoa tướng số học Á đông cũng cho rằng những người có trán cao ráo và rộng rãi thì thiếu niên hiển đạt sớm, và được hưởng phúc đức của tổ tiên (phúc đức này phải được hiểu như là di truyền về thể xác cũng như sự giáo dục của gia đình). Phần trán nở rộng và cao thì chắc hắn là có trí nhớ "dài hạn" rất tốt, có lợi cho việc học hành thi cử, và dĩ nhiên là khả năng suy xét tốt đẹp trong nhiều vấn đề.

Đa số các nước chậm tiến và nghèo khổ do vì chưa có một nền kinh tế ổn định và phát triển. Nhưng muốn có kinh tế vững mạnh, thì điều kiện tiên quyết là các cơ sở kinh doanh, hay xí nghiệp công cũng như tư, cần phải có nhiều nhà quản trị giỏi. Đặc điểm chung của một nhà quản trị giỏi, ngoài kiến thức và hiểu biết, thì vùng số 2 (Wernicke) phải có khả năng xử lý song song nhiều việc cùng một lúc, vì hàng ngày phải giải quyết cả chục vấn đề, có khi chỉ trong vài giờ. Trên là lý do giải thích tại sao người Việt thường yếu kém về khả năng quản trị, và biết đâu ngôn ngữ đã đóng vai trò của một trong những nguyên nhân chính(?).
Sở dĩ người Việt học ngoại ngữ thường gặp rất nhiều khó khăn từ nghe cho đến nói, là vì do chúng ta đã quen với lối đọc và nghe theo đơn âm, trong khi đa số các ngoại ngữ khác đều thuộc dạng đa âm. Đi từ đơn giản đến phức tạp bao giờ cũng khó hơn là từ phức tạp đến đơn giản. Chưa nói đến việc phải du nhập những từ mới để làm giầu thêm cho ngôn ngữ, chỉ những danh từ chuyên môn về khoa học và kỹ thuật cũng đã là trở ngại chính cho việc giảng dạy và học tập rồi. Dám chắc không riêng gì ở hải ngọai mà hiện ở trong nước, nếu có dịp đọc những bài chuyên khảo về khoa học, hiện tượng "song ngữ" đã thấy xuất hiện nhiều và thường xuyên, vì tác giả tìm không ra từ Việt, kẹt quá nên xài luôn từ tiếng Anh (hay Pháp) trong bài! Nếu tiếng Việt được dùng như đa âm thì chắc chắn sẽ dễ dàng hơn trong việc soạn thảo thêm nhiều từ chuyên môn!

Kết luận

Qua những gì đã được trình bày trên cơ sở nghiên cứu khoa học, thì sự tương quan giữa ngônngữ và trí tuệ không còn là giả thuyết nữa, mà là một thực tế. Đối với các dân tộc hiện có ngô nngữ theo đa âm tiết thì không đáng cho họ quan tâm để ý làm gì, bằng chứng là chưa hề có một chương trình khảo cứu quy mô nào "thuộc loại này" xuất hiện trên diễn đàn khoa học, nhất là ở phương tây. Cũng dễ hiểu và thông cảm, là vì cho đến nay khoa học vẫn chưa hiểu biết nhiều lắm sự vận hành của não bộ cho những phạm trù về tư tưởng, trí thông minh, hay khả năng sáng tạo. Lý do khác, không lẽ một nước tiến bộ ở Ấu Mỹ lại chịu bỏ tiền của và công sức tìm hiểu, để nói hay báo động cho các nước khác là: "Coi chừng! Ngôn ngữ của quý vị có thể có vấn đề!" Điều vừa nói phản ảnh đúng phần nào câu châm ngôn của người Việt mình: "Đèn nhà ai nấy rạng". Ngược lại, đối với các nước hiện có ngôn ngữ thiên về đơn âm hay có nhiều từ đa âm tiết do ghép lại mà thành như tiếng Việt, thì không những vấn đề có tầm quan trọng quốc gia, mà còn là "khẩn trương" và "bức xúc" của cả dân tộc. Không phải chờ đến thế kỷ này, xuất hiện cho thấy cái gọi là nền "kinh tế tri thức", thì con người mới cần đến trí tuệ(?). Lịch sử đã chứng minh từ lâu rồi: Quốc gia có hưmg vong, dân tộc có trường tồn, đất nước có văn minh tiến bộ hay không là tùy thuộc vào chỉ một mình "nó" thôi! Nó đây chínhlà trí tuệ, mà như đã minh chứng, chịu ảnh hưởng không ít của ngôn ngữ hay tiếng nói của dân tộc đó.

Vấn đề thay đổi cách viết hay ngôn ngữ sẽ không dễ dàng và thoải mái, và chắc rằng nếu có thực hiện ngay bây giờ, thì phải cần một thời gian vài chục năm trở lên mới thấy được kết quả.

Đa số chúng ta có thể sẽ không thấy hết những thành tựu của việc làm. Tuy nhiên, lợi ích thực tế trước mắt nếu bắt đầu làm bây giờ cho mọi người Việt là chúng ta sẽ có cơ hội để "tái huấn luyện" hay tập cho não bộ hoạt động tích cực nhiều hơn, nhất là cho các vị lớn tuổi. Trong vòng vài năm qua, đã có nhiều khảo cứu chứng minh rằng não bộ vẫn tiếp tục phát triển về phẩm chất và một ít số lượng các tế bào thần kinh, bất kể ở vào tuổi tác nào. Thống kê cũng cho thấy những vị cao niên nếu năng luyện tập trí óc, bằng các trò chơi có suy nghĩ nhiều hay do từ công việc làm, sẽ kéo dài tuổi thọ lâu hơn là những vị ngồi không hay chỉ biết vui thú điền viên.

Sau hết, và cũng là chủ đích của việc thay đổi, chính là nhắm vào thế hệ của những đứa bé vừa mới hay sắp được sinh ra đời, vì theo lẽ tự nhiên, tất cả đều bị bắt buộc phải học ngôn ngữ thứ nhất hay tiếng mẹ đẻ. Cho nên, nếu những kết quả nghiên cứu trên đúng như đã chứng minh, thì có thể nói mà không sợ sai lầm, đó là món qùa vô giá mà chúng ta có thể mang đến cho những mầm non, tương lai của dân tộc.

Quý vị chủ nhiệm, chủ bút các phương tiện truyền thanh và truyền thông; Quý vị lãnh đạo các cơ sở hội đoàn giáo dục và văn hóa; cùng quý độc giả, xin hãy cùng nhau tiếp tay, khởi đầu cuộc hành trình mang lại giấc mơ thịnh vượng và tiến bộ trong thiên niên kỷ mới này cho dân Việt.


copy từ trang thư viện khoa học http://www.thuvienkhoahoc.com/tusach/Ng%C3%B4n_ng%E1%BB%AF_v%C3%A0_tr%C3%AD_tu%E1%BB%87

Sự ghi nhớ và lãng quên

Sự ghi nhớ

Các hình thức ghi nhớ

Sự ghi nhớ trong hệ thần kinh được hình thành bởi sự chuyển hoá 1 của một số tế bào thần kinh.

Sự ghi nhớ được hình thành bởi sự chuyển hoá cơ bản 2 tạo nên sự ghi nhớ bản năng. Còn sự ghi nhớ được hình thành bởi sự tái chuyển hoá tế bào thần kinh là sự ghi nhớ mà mỗi cá thể tự ghi lại trong thời gian hoạt động sống của mình, nói một cách khác, sự ghi nhớ này là kết quả của sự tìm hiểu, sự học tập, rèn luyện kĩ năng của một cá thể trong một hoặc nhiều môi trường sống nào đó, hay gọi là sự ghi nhớ không bản năng. Sự ghi nhớ bản năng được hình thành và biến đổi cùng với sự hình thành và tiến hoá của loài, cho nên nó thuộc về loài, và do đó sự ghi nhớ bản năng của các cá thể trong nhiều thế hệ gần nhau của cùng một loại là giống nhau, còn mức độ thể hiện sự ghi nhớ bản năng này của các cá thể khác nhau trong cùng một loài, cùng thế hệ có thể có những sự khác nhau nào đó. Còn sự ghi nhớ tái chuyển hoá 3 là của riêng từng cá thể, do đó có thể có sự giống hoặc khác nhau giữa các cá thể khác nhau về sự ghi nhớ, về mức độ thể hiện sự ghi nhớ cùng một sự vật hoặc một sự kiện hoặc một hoàn cảnh. Sự khác nhau về ghi nhớ không bản năng, do việc lượng hoá sự vật hoặc sự việc đó để ghi nhớ ở mỗi cá thể có những mức khác nhau, vì vậy mà có tình trạng nhận thức về cùng một vấn đề của các cá thể khác nhau lại có sự dị biệt, nhiều khi còn đối lập nhau. Sự việc được đánh giá càng đúng, tức là mức lượng hoá càng cao thì khả năng ghi nhớ cũng được nâng lên.

Sự ghi nhớ bản năng giúp cho hệ thần kinh điều khiển hoạt động của cơ thể khi mọi chức năng trong cơ thể chưa được hoàn thiện, các bộ phận, các cơ quan chức năng trong cơ thể chưa được hình thành đầy đủ hoặc mức trưởng thành còn thấp. Trong các giai đoạn tiếp theo, sự ghi nhớ bản năng giúp hệ thần kinh điều khiển các hoạt động có tính nhịp điệu như điều khiển hoạt động của hệ hô hấp, tuần hoàn, di chuyển bình thường v.v...Sự hoạt động có tính nhịp điệu trong việc điều khiển hoạt động cơ thể của các tế bào thần kinh trong cơ thể động vật ngày nay được kế thừa từ phương thức hoạt động chức năng thần kinh của các tế bào thần kinh thuỷ tổ của loài, khi loài còn ở dạng tập đoàn động vật đơn bào và có một số đơn bào bị đói nằm ở phía trong của tập đoàn. Tính nhịp điệu được hình thành từ việc khi các đơn bào đói nêu trên bị cạn nguồn dinh dưỡng chúng hoạt động chức năng thần kinh rất mạnh thúc đẩy các đơn bào phía ngoài tìm kiếm và hấp thụ dinh dưỡng, tạo nên sự chênh lệch về nồng độ, thế là chúng có được sự cung cấp dinh dưỡng thông qua sự thẩm thấu. Khi đã được cung cấp dinh dưỡng, chúng no hơn, do đó hoạt động chức năng thần kinh giảm xuống hoặc ngừng lại để đến lúc khi đã dùng hết nguồn dinh dưỡng được cấp, chúng lại bắt đầu kêu lên "Tôi đang đói"để thúc đẩy hoạt động tìm kiến dinh dưỡng của tập đoàn. Điều này được lặp đi lặp lại và hình thành nên phương thức hoạt động theo nhịp điệu của các tế bào thần kinh, tạo nên "nhịp sinh học" cho các loài động vật.

Nói chung, sự ghi nhớ bản năng giúp cho cá thể duy trì được sự tồn tại ở mức thấp nhất của cá thể và duy trì sự tồn tại của loài (thông qua hoạt động sinh sản), giúp cho cá thể nhận biết được mối quan hệ với tự nhiên và mối quan hệ quần xã với mức thông tin thấp nhất, cho nên những tế bào thần kinh mang trách nhiệm ghi nhớ bản năng không được phép chuyển hoá, chúng thường là những tế bào thần kinh có mức trưởng thành cao, các ngưỡng thần kinh thu hẹp để tế bào thần kinh chỉ bị kích hoạt bởi một số rất hạn chế các dạng kích thích thần kinh. Sự biến đổi và hoàn thiện bản năng của mỗi loài động vật dựa trên cơ sở tăng số lượng tế bào ghi nhớ bản năng…Sự hình thành của các tế bào thần kinh bản năng kèm theo sự ghi nhớ bản năng và trong thực tế đã được quy định trong các hệ thống gien của loài, nếu một hoạt động bản năng cần thiết nào đó không được quy định trong hệ thống gien thì loài động vật đó không thực hiện được hoạt động bản năng. Con chim tu hú không biết làm tổ và nuôi con, mặc dù chúng vẫn thực hiện chức năng sinh sản để duy trì nòi giống, chúng không có bản năng làm tổ và ấp trứng, đến đời con cháu của chúng cũng vẫn vậy. Nhưng đa số các loài động vật, cùng với quá trình tiến hoá, các hoạt động bản năng cũng được hoàn thiện thêm. Điều này có nghĩa là các gien quy định về hoạt động bản năng cũng có sự biến đổi để làm tăng số lượng tế bào thần kinh bản năng, và cũng có nghĩa là bản năng cũng có thể thay đổi với những điều kiện nào đó. Nói cách khác đã có một sự chuyển đổi một cách từ từ các tế bào thần kinh ghi nhớ mới thành các tế bào ghi nhớ bản năng qua một số thế hệ nào đó ở một số loài động vật đa bào, và như vậy cũng đã xảy ra một quá trình bổ xung tế bào cho hệ thần kinh trong quá trình tiến hoá của động vật.

Với số lượng không nhiều về tế bào và các dạng kích thích thần kinh có thể tiếp nhận hoặc phát ra, nhóm tế bào thần kinh bản năng thực hiện nối mạng trực tiếp với nhau và với các cơ quan khác của cơ thể mà chúng có trách nhiệm điều khiển. Vì vậy các tế bào thần kinh bản năng hoạt động với các kích thích là xung điện. Khi có sự tham gia vào hoạt động điều khiển của các nhóm tế bào thần kinh khác, như trong các loài động vật bậc cao, thì các tế bào thần kinh đó cũng phải chuyển qua việc kích hoạt các tế bào thần kinh bản năng. Sự điều khiển hoạt động cơ thể của các tế bào thần kinh bản năng là trực tiếp, còn các tế bào thần kinh khác là gián tiếp. Kích hoạt các tế bào thần kinh bản năng thì dẫn đến hoạt động của cơ thể nhưng chỉ kích hoạt các tế bào thần kinh khác (điều khiển gián tiếp) thì không hoàn toàn nhận được sự hoạt động của cơ thể. Người ta có thể nghĩ mà không nói và ngược lại.

Sự ghi nhớ do tái chuyển hoá của tế bào thần kinh, gọi một cách ngắn gọn là sự ghi nhớ mới, giúp cho động vật làm quen với những môi trường mới, những nơi ở mới, những loại thức ăn mới, những cách hoạt động mới, hay nói chung là tạo cho các cá thể động vật có một sự thích nghi mới với môi trường sống mới, cách sống mới. Con ong mật biết đường tìm về tổ khi tổ của chúng được đặt ở một nơi khác. Một số loài cá nuôi, khi đã quen với cách người ta vừa cho ăn vừa gõ vào thành bể thì chỉ cần nghe tiếng gõ vào thành bể nó đã bơi đến chỗ người ta sẽ đưa thức ăn đến để chờ đợi. Con gấu trong rạp xiếc bỏ cách leo cây để ăn mật ong, nhưng lại thực hiện các động tác nhào lộn, đi xe v.v...mà người dạy thú huấn luyện cho chúng để được ăn kẹo. Dù leo cây hay nhào lộn, mục đích cuối cùng của con gấu vẫn là được ăn, trong đó phương thức nhào lộn là cách hoạt động kiếm ăn mới được hình thành trong môi trường sống mới.

Trong đời sống của mỗi cá thể động vật, sự biến đổi của môi trường sống, các mối quan hệ tự nhiên, các mối quan hệ quần xã liên tục tác động lên các cơ quan cảm giác của hệ thần kinh và kéo dài trong suốt cả quãng đời của mỗi cá thể, để sử lý được tất cả được những điều đó, đòi hỏi mỗi cá thể động vật phải ghi nhớ rất nhiều. Nhưng số lượng tế bào thần kinh là có hạn, không thể ghi được tất cả mọi thứ được truyền về từ các bộ phận thần kinh cảm giác được. Hệ thần kinh không có đủ các phần tử để ghi lại được toàn bộ màu sắc, hình khối, đường nét như chụp ảnh, vì khối lượng ảnh sẽ rất lớn, chỉ cần quay đầu hay bước một bước chân là đã có vô vàn hình ảnh của không gian được thu vào mắt. Không những chỉ ghi lại sự tác động của môi trường ngoài, mà hệ thần kinh còn phải ghi những biến đổi ngay trong cơ thể, và còn cao hơn nữa là ghi lại chính những thứ do hệ thần kinh tạo nên. Để tránh phải ghi lại tất cả những thứ vô ích, hệ thần kinh của mỗi loài động vật, của mỗi cá thể trong một loài đều có những điều kiện, những phương thức để cho một sự vật hay một sự việc được lưu lại trong hệ thần kinh dưới dạng ghi nhớ, và do đó cũng tạo nên nhiều đặc điểm của sự ghi nhớ về điều kiện để ghi nhớ, trong đặc điểm thứ 7, thứ 11, thứ 12 của các đặc điểm hình thành hệ thần kinh đã nêu, đó là sự chuyển hoá của tế bào thần kinh dưới sự biến đổi của môi trường. Trong việc thiết lập sự ghi nhớ thì quá trình thì diễn ra như sau:

Một (hoặc nhiều) kích thích thần kinh sơ cấp khi truyền đến các tế bào thần kinh có nhiệm vụ ghi nhớ (nếu nhiều kích thích sơ cấp, chúng sẽ kết hợp lại theo các tính chất của dao động điện từ hay sóng điện từ để trở thành một hoặc một phổ kích thích sơ cấp). Nếu chúng nằm trong phạm vi các giới hạn tiếp nhận kích thích và nếu tế bào thần kinh đó cũng vừa đạt một bậc chuyển hoá, thì kích thích sơ cấp đó làm cho tế bào thần kinh chuyển hoá ghi lại sự tác động của kích thích đó.

Nếu so sánh với sự ghi nhớ bằng đĩa từ, băng từ hoặc đĩa dạng CD-ROM với sự ghi nhớ của tế bào thần kinh thì có những sự giống và khác nhau sau:

Giống nhau: Đều phải có một sự tác động vật lý lên phần tử nhớ đối với đĩa và băng từ, đó là sự tác động của từ trường biến thiên của đầu từ, của đĩa dạng CD-ROM là chùm Laser, còn với tế bào thần kinh, đó là kích thích thần kinh dưới dạng xung điện hoặc sóng điện từ, một số tế bào thần kinh chịu trách nhiệm điều khiển sự định hướng còn chịu sự tác động của từ trường hoặc lực hút của trái đất.

Khác nhau: Sự khác nhau chủ yếu là sự thể hiện những gì mà phần tử ghi nhớ đã ghi được. Với đĩa CD-ROM là chùm Laser, với tế bào thần kinh là kích thích sơ cấp đã tạo nên sự ghi nhớ hoặc một kích thích gần với kích thích đó (kích thích nằm trong phổ kích thích sơ cấp của tế bào) và có khả năng kích hoạt tế bào thần kinh. Có nghĩa là phải có một kích thích ban đầu thì sự ghi nhớ mới thể hiện. Còn trong băng từ thì các phần tử ghi nhớ liên tục phát sự ghi nhớ bằng một từ trường yếu. Một sự khác nhau nữa là cường độ và thời lượng thể hiện sự ghi nhớ. Đĩa CD-ROM kết thúc sự thể hiện khi tắt kích thích, và cường độ thể hiện phụ thuộc vào nguồn kích thích. Phần tử từ thể hiện sự ghi nhớ là liên tục, nhưng cường độ rất nhỏ nên muốn đọc được sự ghi nhớ, đầu đọc phải để rất gần với phần tử từ. Còn các tế bào thần kinh lại là một bộ máy, cho nên sự thể hiện về thời lượng cũng như cường độ của sự ghi nhớ là các là các đại lượng không xác định được.

Một số đặc điểm của sự ghi nhớ mới

Để hiểu rõ hơn sự ghi nhớ của hệ thần kinh chúng ta chúng ta hãy xem xét một số đặc điểm của sự ghi nhớ mới (ghi nhớ không bản năng) của hệ thần kinh sau:

  • Không ghi nhớ tất cả những thứ tác động lên các tế bào làm nhiệm vụ ghi nhớ mới của hệ thần kinh.

Đây là cách khắc phục tình trạng số phần tử ghi nhớ thì có hạn, trong khi đó những điều phải nhớ là vô hạn. Các loài vật có chỗ ở cố định (hang, tổ…) chúng nhận biết được nhờ đánh dấu bằng mùi vị hoặc một vài ký hiệu riêng do chúng tạo ra, nhận biết đồng loại, con cái qua hình dạng, màu sắc hoặc mùi vị. Trong hoạt động phòng vệ, nhiều loài vật hành động theo bản năng hơn là những gì chúng học được. Rất khó mô tả lại một cách chi tiết một bức tranh, một cảnh quan khi chỉ nhìn thấy một lần, nếu có thì cũng chỉ nêu lên được một vài chi tiết nào đó đáng chú ý. Nói tóm lại hệ thần kinh khi ghi nhớ sự vật hoặc sự việc, nó không ghi nhớ hình ảnh theo kiểu chụp ảnh, không ghi nhớ tiếng động, âm thanh theo kiểu máy ghi âm, trong một loạt các tác động lên hệ thần kinh, thì hệ thần kinh thường chọn những tác động có cường độ mạnh hơn, gây ấn tượng hơn để ghi nhớ, tức là chọn những cơ hội chuyển hoá ngoài phù hợp với cơ hội chuyển hoá tự thân hay cơ hội chuyển hoá trong của tế bào.

  • Một chi tiết của một sự vật có thể được ghi nhớ ở nhiều tế bào, nhiều khu vực thần kinh, và ngược lại, một hoặc một nhóm tế bào thần kinh giống nhau lại ghi nhớ một chi tiết của nhiều sự vật, sự việc khác nhau.

Hệ thần kinh càng phát triển thì đặc điểm này càng rõ nét bởi số lượng tế bào thần kinh lớn thì có nhiều tế bào thần kinh cùng đạt tới bậc chuyển hoá. Khi có sự tác động của sự ghi nhớ thì các tế bào có cơ hội chuyển hoá trong phù hợp sẽ cùng chuyển hoá, tạo nên nhiều phần tử ghi nhớ cho chi tiết đó. Nếu các tế bào là cùng nhóm, có nghĩa là chúng phát ra cùng kích thích thứ cấp thì khi biểu hiện sự ghi nhớ chi tiết đó, theo nguyên tắc cộng tác dụng, cường độ biểu hiện sẽ mạnh lên. Nếu các tế bào khác nhóm, thì chúng sẽ có sự biểu hiện sự ghi nhớ theo cách khác nhau nhưng vẫn mang cùng một ý nghĩa. Khi ghi nhớ màu đỏ, khu vực hình ảnh sẽ ghi lại màu đỏ, còn khu vực ngôn ngữ sẽ ghi lại từ đỏ, và sau đó, khi nhìn thấy màu đỏ, các tế bào ghi nhớ từ đỏ cũng có thể được kích hoạt, ngược lại khi sắc đỏ được ghi cùng từ "đỏ" thì chỉ cần nghe tiếng "đỏ" hoặc đọc chữ "đỏ" thì các tế bào ghi nhớ sắc đỏ cũng được kích hoạt để biểu thị màu đỏ.

Ở đây có sự kết hợp của các tác động ghi nhớ. Mỗi một nhóm tế bào thần kinh sẽ ghi lại một hoặc một số dạng chi tiết nhất định, có nhóm ghi nhớ về màu sắc, có nhóm ghi lại hình khối, đường nét. Các nhóm này nhận các kích thích thần kinh được truyền về từ mắt. Các nhóm ghi về âm thanh, tiếng động, lời nói nhận kích thích từ tai. Khi một sự vật được mô tả bằng nhiều yếu tố tác động lên các cơ quan cảm giác của hệ thần kinh cùng một lúc như ánh sáng, âm thanh, mùi vị...thì các tế bào chịu trách nhiệm ghi lại một chi tiết của một yếu tố (ví dụ màu đỏ của ánh sáng) thì không chỉ chịu sự tác động của kích thích truyền về từ mắt mà còn chịu sự tác động của kích thích truyền về từ tai hoặc các cơ quan cảm giác khác. Điều này là cơ sở của sự kích hoạt tế bào thần kinh khi không có yếu tố chính hay kích thích cùng dạng tạo nên sự chuyển hoá để ghi nhớ trong tế bào thần kinh. Chỉ nhìn thấy quả chanh hay quả khế chua, hoặc chỉ nghe người khác nói đến quả chanh hay quả khế chua là ta đã tiết nước bọt, chứ chưa cần phải cắn vào quả chanh hay quả khế chua, ở đây, yếu tố chính gây nên sự tiết nước bọt là vị chua của quả tranh hay của quả khế chua.

Cách ghi nhớ như vậy là cách ghi nhớ nhiều điểm mà ta có thể thấy ở các băng từ ghi hình và tiếng. Nhưng sự kích hoạt sự ghi nhớ thì khác nhau hoàn toàn. Một sự kích hoạt trong băng từ hay đĩa Laser chỉ kích hoạt một phần tử nhỏ, nhưng trong hệ thần kinh thì có thể kích hoạt nhiều phần tử cùng một lúc.

  • Ghi nhớ tiêu điểm.

Khác với cách ghi nhớ nhiều điểm nói trên là cách ghi nhớ tiêu điểm, tức là cách ghi nhớ mà một tế bào hay một số tế bào thần kinh giống nhau sẽ ghi nhớ một chi tiết của nhiều sự vật hay nhiều sự việc khác nhau. Màu đỏ khi kết hợp với một chiếc áo choàng ta có chiếc áo choàng đỏ, khi kết hợp với chiếc khăn ta có chiếc khăn đỏ. Trong sự ghi nhớ của hệ thần kinh, sẽ có một hoặc một số tế bào sẽ ghi lại sắc đỏ mà không cần biết nó là một chi tiết của chiếc áo hoặc của một cái khăn, còn các tế bào khác thì ghi những chi tiết khác như chiều dài, chiều rộng, khuy áo v.v...Khi kích hoạt các tế bào thần kinh ghi nhớ về chiếc áo choàng đỏ thì các tế bào thần kinh ghi sắc đỏ cũng hoạt động biểu thị cho màu đỏ của áo, và lúc này màu đỏ mà ta hiểu là màu đỏ của áo chứ không phải màu đỏ của bông hồng. Nhưng khi kích hoạt sự ghi nhớ về chiếc khăn quàng đỏ thì mặc dù các tế bào ghi sắc đỏ đã hoạt động biểu thị cho màu đỏ của chiếc áo choàng bây giờ cũng hoạt động để biểu thị màu đỏ, nhưng màu đỏ lúc này lại là của chiếc khăn quàng chứ không còn là của chiếc áo choàng nữa.

Trong ngôn ngữ nói và viết cũng vậy, khi ta nói các câu "Tôi đang đi", "Tôi sẽ đi", " anh ta đang đi" hoặc viết các chữ có sử dụng hệ thống chữ cái hoặc các bộ chữ thì trong các câu nói trên, tiếng "đi" được ghi nhớ chung cho các câu nói khác nhau, thể hiện những ý nghĩa khác nhau nhưng có một số chi tiết giống nhau. Các chi tiết giống nhau có thể được sử dụng chung.

Sự ghi nhớ tiêu điểm cũng mang nhiều ý nghĩa lớn sau:

  • *Tiết kiệm bộ nhớ. Việc sử dụng chung các chi tiết giống nhau khi biểu thị các ý nghĩa khác nhau làm cho hệ thần kinh không phải nhớ toàn bộ các chi tiết của một sự vật hay sự việc mới, mà chỉ cần ghi nhớ những chi tiết mới chưa có trong bộ nhớ, còn những chi tiết giống hoặc đã có sẵn trong hệ thần kinh thì có thể được hệ thần kinh mang ra sử dụng để ghi nhớ sự vật hay sự việc mới này. Trong nhà đã có một chiếc thùng đựng nước màu xanh nhỏ và một người mới mang đến một chiếc thùng đựng nước to màu trắng, chi tiết đã được nhớ trong hệ thần kinh là "Chiếc thùng đựng nước, còn chi tiết mới đó là "to" và "màu trắng", hệ thần kinh chỉ cần ghi thêm hai chi tiết mới này mà vẫn thể hiện được ý nghĩa "Chiếc thùng đựng nước to màu trắng" hoặc " chiếc thùng đựng nước nhỏ màu xanh" khi muốn nói về chiếc thùng nào.

Hệ thần kinh thực hiện được việc dùng một hoặc một số ít tế bào để ghi nhớ một chi tiết giống hoặc gần giống nhau của các sự vật, sự việc khác nhau là nhờ các tế bào thần kinh được kích hoạt không phải chỉ với một tần số kích thích duy nhất mà với một phổ tần số nhất định nào đó, điều này đã được nêu trong phần "Hoạt động của tế bào thần kinh". Nếu phổ tiếp nhận kích thích càng rộng thì khả năng ghi nhớ nhiều sự vật, sự việc khác nhau càng tăng, trong khi số lượng tế bào thần kinh không tăng.

    • Chuyển đổi một cách nhanh chóng sự thể hiện ghi nhớ về một sự vật, hoặc sự việc này sang sự vật hoặc sự việc khác có một hoặc một số chi tiết trong các sự vật, sự việc đó giống nhau.

Khi các sự vật hoặc sự việc có một chi tiết giống nhau và được ghi nhớ bởi một hoặc một số tế bào thần kinh, thì các tế bào này trở thành một nút giao thông để có thể đi về rất nhiều hướng, mà mỗi hướng là sự thể hiện các chi tiết tiếp theo của sự vật hoặc sự việc. Đây là cơ sở của việc xác lập nhiều giải pháp khác nhau, nhiều cách giải quyết khác nhau cho một vấn đề, hay nói cách khác, bằng phương pháp ghi nhớ tiêu điểm, hệ thần kinh đã nhận được sự thông minh. Sự ghi nhớ của hệ thần kinh khi được thể hiện lại qua ghi nhớ tiêu điểm có thể theo một lôgích được đưa vào từ trước, nhưng cũng có thể theo một lôgích mới mà hệ thần kinh tự tạo nên hoặc chọn lựa, và đó là tư duy, là trí tuệ.

    • Giúp cho hệ thần kinh nhận dạng được các sự vật, sự việc được biểu hiện ở nhiều dạng khác nhau, mà rõ nhất là ở sự nhận dạng âm thanh, tiếng nói, sau đó là hình khối. Cùng một câu nói, cùng một ý nghĩa, nhưng do nhiều người nói với giọng khác nhau, ngữ điệu khác nhau, nhưng hệ thần kinh vẫn có thể nhận ra được. Nếu phổ tiếp nhận tần số càng rộng thì hệ thần kinh càng tiếp nhận được nhiều giọng nói khác nhau, ngưỡng thế năng càng thấp thì hệ thần kinh càng dễ nhận ra âm sắc của giọng nói. Người ta nhận ra tác dụng chứa nước của một vật bất kỳ, miễn là nó thoả mãn hai điều kiện: Nó không để nước thấm qua nó, có đáy và thành xung quanh đáy gắn liền với nhau, do đó nó có thể là ca, là cốc, là thùng, là chum, vại v.v...Khi cần đựng nước, người ta có thể vận dụng được rất nhiều thứ cho việc chứa nước và tạo ra được thứ để đựng nước từ nhiều loại vật liệu khác nhau như đất nung, sắt thép, thuỷ tinh, nhựa, gỗ,v.v... Chữ viết của người này không giống chữ viết của người khác, chữ có thể cao gầy, to nhỏ, có thể in hoa hoặc in thường, được viết đơn giản hay cầu kỳ, hệ thần kinh vẫn có thể nhận ra được ngay cả trong trường hợp nó chưa ghi nhớ hoặc chưa biết gì về các chữ đó. Ở đây hệ thần kinh đã sử dụng sự ghi nhớ tiêu điểm để chọn lọc, để ghi nhớ những đặc điểm chính biểu hiện ý nghĩa của chữ. Cho nên đã dễ dàng nhận dạng được chữ. Ý nghĩa nhận thức định tính ở đây có giá trị hơn ý nghĩa nhận thức định lượng, nếu lượng hoá một cách cao độ để ghi nhớ chữ, như quy định phải biểu thị chữ về kích thước chữ, độ rộng của nét, hình dáng, màu sắc của chữ thì một điều chắc chắn là số kiểu chữ được nhận dạng sẽ giảm xuống rất nhiều.

Tái ghi nhớ

Đây là hoạt động ghi nhớ của hệ thần kinh để ghi lại những biểu hiện hoạt động của các tế bào thần kinh, ghi lại những tác động, những kích thích thần kinh do các tế bào thần kinh tạo nên. Hoạt động này có ý nghĩa và thể hiện ở các điểm sau:

  • Tái ghi nhớ hay ghi nhớ lại tác động của môi trường bằng việc dịch chuyển hoặc thêm phần tử nhớ mới.

Khi một tế bào thần kinh đã chuyển hoá để ghi nhớ về một chi tiết nào đó, được kích hoạt, nó sẽ hoạt động và phát ra một kích thích thần kinh (kích thích thứ cấp) để biểu thị chi tiết đó, thì đối với một số tế bào thần kinh khác mà có khả năng ghi nhớ và phát ra kích thích cùng loại với tế bào đã chuyển hoá nói trên, kích thích đó là cơ hội ngoài của chuyển hoá, và nếu cơ hội chuyển hoá trong cũng xảy ra đồng thời thì nó sẽ chuyển hoá để ghi lại chi tiết đó một cách nguyên vẹn. Đây là hình thức chuyển vị trí nhớ đặc biệt do hệ thần kinh tự thực hiện và nó có những ý nghĩa sau:

  • Tăng độ rõ nét của sự ghi nhớ. Với việc tăng số lượng tế bào thần kinh ghi nhớ một chi tiết nguyên dạng bằng phương pháp trên (phương pháp cấp số nhân) thì khi kích hoạt ghi nhớ, số lượng tế bào tham gia vào việc thể hiện sự ghi nhớ sẽ tăng cao, làm cho cường độ thể hiện (kích thích thứ cấp) tăng mạnh và sự ghi nhớ được thể hiện một cách rõ ràng hơn ban đầu (lúc mới hình thành sự ghi nhớ chi tiết đó).
  • Bảo tồn nhớ và kéo dài sự ghi nhớ.

Do đặc điểm tế bào thần kinh có thể tái chuyển hoá nhiều lần nên có thể xảy ra tình trạng một tế bào thần kinh đã tái chuyển hoá để ghi nhớ một chi tiết, lại tiếp tục chuyển hoá lần nữa để thực hiện ghi nhớ một chi tiết khác của một sự vật khác, cho nên không thể thể hiện chi tiết mà nó đã nhớ trước đó (đây là một hình thức quên). Nhờ phương pháp chuyển vị trí nhớ, mà sự ghi nhớ chi tiết ban đầu trong hệ thần kinh được bảo tồn (trong một thời kỳ nào đó tuỳ thuộc vào sự tái chuyển hoá của tế bào thần kinh). Nếu thực hiện việc chuyển dịch vị trí nhớ nhiều lần trước khi tế bào nhớ bị tái chuyển hoá lần nữa thì có thể duy trì sự ghi nhớ trong một quãng thời gian dài. Đây là một hình thức "Văn ôn, võ luyện" để duy trì sự ghi nhớ.

Tái ghi nhớ đổi dạng

Tái ghi nhớ đổi dạng là sự ghi nhớ lại một chi tiết, một sự vật hay một sự việc nhưng biểu hiện ở hình thức khác. Tái ghi nhớ đổi dạng chỉ thực hiện được ở các hệ thần kinh sử dụng hệ thống tiếng nói để ghi nhớ và biểu hiện sự ghi nhớ, và các chi tiết, các sự vật, sự việc, được mô tả không chỉ bằng hệ thống tiếng động, hình ảnh, màu sắc, mùi vị v.v..., mà còn được mô tả bằng tiếng nói và các dạng ghi nhớ khác,ở đây là ghi nhớ về các tiếng nói để mô tả sự vật, sự việc hoặc ghi nhớ chính những sự tác động của sự vật, sự việc đó lên hệ thần kinh thông qua các bộ phận cảm giác của hệ thần kinh. Sự ghi nhớ đổi dạng là sự ghi nhớ thay đổi từ dạng tiếng nói sang dạng hình ảnh cụ thể trong hệ thần kinh hoặc ngược lại.

Một người lần đầu tiên nhìn thấy một chiếc ô tô, trong hệ thống từ vựng của người đó chưa có các từ nói về ô tô thì người đó không thể mô tả được chiếc ô tô đó bằng tiếng nói, nhưng nếu người đó có khả năng vẽ thì anh ta có thể vẽ ra được hình chiếc ô tô, thậm chí cả màu sắc hoặc một số chi tiết. Ở đây, trong hệ thống ghi nhớ của anh ta chỉ mới ghi được dạng hình ảnh của chiếc ô tô, và mô tả lại được cũng chỉ bằng hình ảnh. Nhưng nếu anh ta đã có một trình độ hiểu biết nhất định về ô tô thì anh ta không chỉ nhớ được hình ảnh của chiếc ô tô đó, mà còn mô tả được nó bằng hệ thống tiếng nói, và lúc này, người nghe, tuỳ vào trình độ, năng lực của hệ thần kinh người nghe, mà chiếc ô tô được hình dung dưới dạng nào đó. Với người đã nhìn thấy ô tô thì trong hệ thống ghi nhớ của hệ thần kinh, chiếc ô tô đã được ghi nhớ ở cả hai dạng tiếng nói và hình ảnh. Nhưng với người nghe chiếc ô tô đó chỉ được ghi nhớ dưới dạng tiếng nói bởi sự mô tả của người đã nhìn thấy ô tô, sau đó bằng sự tưởng tượng trên cơ sở những lời nói mô tả đó, anh ta hình dung ra hình dạng, màu sắc, các chi tiết, loại vật liệu làm nên chiếc ô tô đó và ghi lại hình ảnh đó vào bộ nhớ của mình. Như vậy, sự ghi nhớ đã được chuyển dạng từ tiếng nói sang hình ảnh.

Sự chuyển dạng ghi nhớ theo chiều ngược lại, từ hình ảnh sang tiếng nói cũng được thực hiện trong hệ thần kinh đã có khả năng ghi nhớ bằng tiếng nói. Một người khi nhìn thấy một vật thì có thể xẩy ra sự ghi nhớ bằng hình ảnh. Sau đó, người này mới hình dung lại (thể hiện sự ghi nhớ bằng hình ảnh) và thực hiện mô tả bằng tiếng nói và ghi lại thì sự ghi nhớ đã chuyển từ dạng hình ảnh sang dạng tiếng nói.

Tái ghi nhớ đổi dạng, ngoài việc mang các ý nghĩa của chuyển vị trí nhớ, nó còn tạo cho hệ thần kinh một khả năng mới, đó là sự tưởng tượng. Nếu suy nghĩ là hoạt động tư duy ở khu vực tiếng nói, âm thanh thì sự tưởng tượng là hoạt động của tư duy ở khu vực hình ảnh, cảm giác. Nhờ sự đổi dạng mà suy nghĩ có thể chuyển thành tưởng tượng và ngược lại, từ tưởng tượng có thể chuyển thành suy nghĩ. Sự kết hợp của hai yếu tố này một cách nhịp nhàng, nhuần nhuyễn, kịp thời sẽ thúc đẩy một cách mạnh mẽ hoạt động tư duy. Tưởng tượng tốt sẽ giúp cho suy nghĩ chắc chắn và chính xác. Suy nghĩ tốt sẽ làm cho việc tưởng tượng phong phú. Suy nghĩ tốt sẽ làm giàu cho đời sống vật chất. Tưởng tượng tốt làm giàu có cho đời sống tinh thần. Nếu chỉ có suy nghĩ mà không có tưởng tượng, hoạt động tư duy sẽ trở thành khô khan, nhưng nếu chỉ có tưởng tượng mà không suy nghĩ thì hoạt động tư duy trở nên hão huyền.

Sự khác nhau về khả năng ghi nhớ giữa các cá thể động vật

Điều này bắt nguồn từ việc mỗi hệ thần kinh được hình thành trong những hoàn cảnh khác nhau, những thời điểm khác nhau, do đó mỗi hệ thần kinh, kể cả các cá thể cùng loài, có một khả năng ghi nhớ nhất định biểu hiện ở những điểm sau:

  • Dễ nhớ và nhớ nhanh. Đây là biểu hiện của đặc tính dễ chuyển hoá của các tế bào thần kinh. Cá thể nào có đặc tính dễ biến đổi cao thì dễ ghi nhớ, cá thể nào mang đặc tính dễ biến đổi thấp thì khó ghi nhớ hơn. Nếu trong hệ thần kinh không có tế bào có khả năng tái chuyển hoá thì sự ghi nhớ mới không thể thực hiện được, mọi hoạt động của cơ thể được thực hiện bởi sự điều khiển của các tế bào thần kinh ghi nhớ bản năng.
  • Phổ tác động của kích thích thần kinh lên các tế bào ghi nhớ phù hợp với phổ tiếp nhận kích thích của tế bào sẽ làm cho tế bào dễ ghi nhớ hơn.

Số lượng các tác động từ các môi trường lên hệ thần kinh là rất nhiều, các tế bào thần kinh chịu trách nhiệm ghi nhớ những sự tác động đó có thể nhận trực tiếp. hoặc nhận gián tiếp thông qua các cơ quan cảm giác, các tế bào thần kinh cảm giác và truyền dẫn thần kinh. Do số lượng tế bào là có hạn và để đảm bảo sự sống của tế bào thần kinh, mà cơ thể đã tạo cho tế bào thần kinh một hàng rào bảo vệ để chống lại vô số tác động của môi trường, chỉ để lại một ô cửa cho một số tác động của môi trường có thể đi qua, tạo nên phổ tiếp nhận kích thích thần kinh, điều này đã được trình bày trong phần "Hoạt động của tế bào thần kinh". Riêng đối với các tế bào ghi nhớ, thì các tác động của môi trường không chỉ kích hoạt hoạt động chức năng thần kinh của các tế bào này, mà trước đó có thể nó đã làm chuyển hoá tế bào để ghi nhớ sự tác động của nó (cũng có thể có một tác động khác làm chuyển hoá tế bào nhưng nó vẫn kích hoạt được tế bào này) tuỳ theo vị trí của ô cửa, độ mở của cánh cửa mà phổ tiếp nhận kích thích rộng hay hẹp, tế bào tiếp nhận được nhiều hay ít các tác động của môi trường hay các kích thích thần kinh, loại kích thích thần kinh. Điều này đã dẫn đến hiện tượng mỗi người, mỗi cá thể có khả năng ghi nhớ về một lĩnh vực nào đó dễ dàng hơn so với các lĩnh vực khác. Có người nhớ được sự rắc rối của các công thức toán học rất nhanh, nhưng lại rất vất vả khi học thuộc lòng một bài thơ. Có người chỉ nhìn thoáng một bức tranh đã cảm nhận được rất nhiều sắc màu của nó. Với các nhạc sĩ thì việc ghi lại một bản nhạc thì lại là một điều dễ ràng...

Việc dễ ghi nhớ về một lĩnh vực nào đó (hay một phổ kích thích nào đó) tạo nên thiên hướng của hoạt động thần kinh. Thiên hướng bộc lộ rõ tạo nên năng khiếu bẩm sinh. Nói cách khác sự ghi nhớ cũng như thiên hướng hoạt động của hệ thần kinh đã có phần nào đó được xác định từ khi cơ thể đang ở trong giai đoạn hình thành.

Không chỉ khác nhau về khả năng ghi nhớ giữa các hệ thần kinh khác nhau, mà ngay trong cùng một hệ thần kinh, giữa các nhóm tế bào khác nhau cũng có những mức độ ghi nhớ và phổ kích thích (phổ ghi nhớ hay lĩnh vực ghi nhớ) khác nhau. Nếu phần lớn các tế bào ghi nhớ chỉ tập trung ghi nhớ về một lĩnh vực nào đó thì hoạt động thần kinh sẽ đơn điệu, có khi là máy móc giáo điều. Nếu hệ thần kinh có nhiều nhóm khác nhau và các nhóm ghi nhớ được nhiều lĩnh vực khác nhau thì hoạt động thần kinh sẽ phong phú hơn, và nhờ sự tác động qua lại giữa các nhóm mà nảy sinh hoạt động sáng tạo bởi nó chống được sự đơn điệu, giáo điều.

  • Mức độ ghi nhớ khác nhau về từng lính vực.

Sự khác nhau về khả năng ghi nhớ còn thể hiện về mức độ ghi nhớ về từng lĩnh vực của các hệ thần kinh khác nhau, điều này xảy ra bởi những nguyên nhân sau:

    • Khác nhau về mức độ khó hay dễ chuyển hoá.
    • Khác nhau về sự tác động của môi trường hay sự kết hợp của các cơ hội chuyển hoá trong và chuyển hoá ngoài.

Mức độ dễ hay khó chuyển hoá của các tế bào thần kinh nói riêng và của các tế bào sinh vật nói chung là một đặc tính sinh học của sự sống. Mỗi loài sinh vật, mỗi cá thể sinh vật đều có một mức độ dễ hay khó chuyển hoá nhất định. Và điều này, như các phần trước đã nêu, có ảnh hưởng lớn đến sự tiến hoá, sự thích nghi, tồn tại và diệt vong của từng loài, từng cá thể. Vấn đề này sẽ được bàn đến trong một phần riêng sau này.

Một số phương pháp tác động để ghi nhớ về một chi tiết, một sự vật hay một sự việc

Đây là hệ quả trực tiếp từ các đặc điểm 1, 2, 3 của sự ghi nhớ mới được nêu ở trên. Mắt ta chưa từng được nhìn thấy một vật nào đó, nhưng thông qua sự mô tả của người khác bằng lời nói hay bằng những câu viết với một mức độ cần thiết đủ cho ta hình dung ra nó thì sự hình dung này sẽ được ghi lại trong khu vực hình ảnh, để rồi sau đó ta nhận đúng được vật mà ta đã được nhận sự mô tả khi nhìn thấy nó. Con cá được ăn cùng lúc với việc nghe tiếng động ở thành bể thì sau đó chỉ cần nghe tiếng động ở thành bể nó sẽ nhớ đến việc được ăn.Lợi dụng điều này ta có thể làm tăng khả năng ghi nhớ bằng cách tác động cùng một lúc lên nhiều bộ phận cảm nhận của hệ thần kinh. Khi học thuộc bài để nhanh ghi nhớ, không chỉ nhìn bằng mắt vào chữ viết, mà kết hợp với việc đọc bài thành tiếng, tay viết chữ theo âm thanh phát ra khi đọc, kết quả ghi nhớ sẽ được thực hiện nhanh hơn là chỉ nhẩm bài học trong đầu. Thực tế ở đây là ta lợi dụng đặc điểm ghi nhớ ở nhiều vị trí trong hệ thần kinh khi ghi nhớ một chi tiết và khả năng đổi dạng ghi nhớ.Nếu sự ghi nhớ tiêu điểm đã có trong hệ thần kinh thì sự ghi nhớ này cũng có thể được sử dụng trong trường hợp này.

Sự ghi nhớ chậm

Đây là sự ảnh hưởng do chuyển đổi từ tác động của các yếu tố vật lý sang tác động của các yếu tố hoá học. Dưới tác động của các yếu tố vật lý (xung điện sinh học hay sóng điện từ sinh học), các yếu tố hoá học (các prôtêin trong tế bào thần kinh) sẽ sắp xếp, liên kết với nhau theo một trật tự nào đó. Nhưng không phải lúc nào các yếu tố hoá học cũng có sẵn hoặc phù hợp với yêu cầu (thiếu cơ hội trong). Mặt khác các phản ứng, các tác động hoá học thường có tốc độ thấp hơn các yếu tố vật lý, cho nên sự ghi nhớ của hệ thần kinh không nhanh bằng các hình thức ghi nhớ vật lý hay sử dụng các yếu tố vật lý để ghi nhớ.

Sự ghi nhớ kém bền vững

Nguyên nhân chính của vấn đề này là tế bào thần kinh là một thực thể sống, nó chỉ giữ được sự ghi nhớ khi nó còn sống và không bị tái chuyển hoá để ghi nhớ về vấn đề khác. Do sống trong sự liên kết với các tế bào khác cho nên nó luôn phải thực hiện sự liên hệ với các tế bào khác, và tiếp xúc liên tục với môi trường cơ thể cũng như một số tác động khác, cho nên khả năng tái chuyển hoá hay thay đổi sự ghi nhớ là cao. Nói một cách khác các phần tử ghi nhớ của hệ thần kinh là không thể đưa vào bảo quản, cất giữ được, sự bền vững cho ghi nhớ chỉ còn trông chờ vào khả năng tự thân của tế bào thần kinh và các hình thức chuyển đổi ghi nhớ của hệ thần kinh.

Sự ghi nhớ liên kết và ghi nhớ không liên kết

Sự ghi nhớ liên kết giúp cho hệ thần kinh có thể tái hiện được những sự kiện, những vấn đề những chi tiết hoặc những hình ảnh có liên quan đến nhau hoặc không có sự liên quan nhưng được đưa vào hệ thần kinh theo một trình tự thời gian. Các thông tin từ bên ngoài được hệ thần kinh tiếp nhận bằng hệ thống cảm giác theo trật tự thời gian hoặc không theo trật tự thời gian nhưng có những mối quan hệ nào đó sẽ liên kết với nhau thành chuỗi thông tin. Khi có một kích thích tác động lên một thành phần trong chuỗi thông tin thì một phần hoặc toàn bộ chuỗi thông tin đó được kích hoạt để thể hiện sự ghi nhớ. Ưu điểm của hình thức ghi nhớ này là nó giúp cho hệ thần kinh dễ tái hiện được những cái mà nó đã nhớ, những vấn đề có liên quan đến nhau, những chủ đề thường được tái hiện nhanh. Những điều này tạo được sự tự tin cho hệ thần kinh. Nhưng nhược điểm của nó là dễ tạo nên sự giáo điều, bảo thủ, nhiều khi rườm rà vì những vấn đề không hoặc ít liên quan cũng xen vào chủ đề chính làm mất sự tập trung, khả năng sáng tạo thấp.

Sự ghi nhớ không liên kết là việc hệ thần kinh không tạo ra các mối liên hệ hoặc chỉ tạo ra các mối liên hệ mang tính tạm thời giữa các vấn đề, các chi tiết, các hình ảnh mặc dù chúng có liên quan đến nhau hoặc được hệ thần kinh tiếp nhận theo trật tự thời gian, sự liên kết yếu nhiều lúc cũng có biểu hiện này. Do các thông tin đó không được liên kết thành chuỗi cho nên việc thể hiện những cái có liên quan đến nhau là khó khăn, chúng không được hệ thần kinh tái hiện đầy đủ trong một lần nhớ lại, nhiều vấn đề, nhiều chi tiết không được thể hiện khi có kích thích không phải vì hệ thần kinh không nhớ mà có thể do các tế bào thần kinh ghi nhớ đã chuyển đổi phổ tiếp nhận kích thích thần kinh hoặc tái chuyển hoá,v.v...Do việc thể hiện sự ghi nhớ không được đầy đủ vào lúc cần thiết nên hệ thần kinh dễ gặp lúng túng trong việc sử lí thông tin, do đó nó dễ mất đi sự tự tin. Nhưng ưu điểm của nó là làm cho hệ thần kinh có khả năng sáng tạo. Tính sáng tạo được thể hiện khi hệ thần kinh xoá bỏ những mối liên hệ cũ của sự ghi nhớ và tạo lập những mối liên hệ mới hợp lí hơn, cô đọng và xúc tích hơn.

Sự lãng quên

Sự lãng quên là sự mất đi sự ghi nhớ về một chi tiết ,một sự việc hoặc sự vật nào đó của hệ thần kinh. Sự lãng quên có một số biểu hiện sau:

Sự lãng quên do chưa kịp ghi nhớ

Ta đã biết rằng phần lớn các tác động lên các tế bào ghi nhớ của hệ thần kinh đều là gián tiếp thông qua các bộ phận cảm giác và truyền dẫn kích thích thần kinh. Khi các tế bào truyền dẫn cuối cùng được kích hoạt để truyền kích thích cho các tế bào ghi nhớ thì sự hoạt động của nó sẽ thể hiện giống như các tế bào ghi nhớ, điều này xảy ra tương tự như sự lưu hình của các tế bào thị giác trong võng mạc mắt. Có thể nói nhờ các tế bào này mà hệ thần kinh thực hiện được sự ghi nhớ tạm thời (hay giữ lại cơ hội chuyển hoá ngoài) để chờ sự ghi lại của các tế bào ghi nhớ (chờ cơ hội chuyển hoá trong). Nhưng vì là bộ phận truyền dẫn nên các tế bào này lại tiếp tục phải nhận các kích thích mới từ các tế bào thần kinh cảm giác. Cho nên chúng không được phép lưu lại quá lâu những gì chúng ghi nhớ. Sự ghi nhớ tạm thời kết thúc khi có nhu cầu ghi nhớ mới. Trong thời kì ghi nhớ tạm, các tế bào này có thể được kích hoạt để thể hiện sự ghi nhớ (nếu kích thích cùng dạng với kích thích hay tác động ban đầu) và nếu lúc đó các tế bào ghi nhớ chuyển hoá kịp, thì sự ghi nhớ chính thức được thực hiện. Hết thời hạn ghi nhớ tạm thời mà không có tế bào ghi nhớ nào thực hiện được việc ghi nhớ thì hệ thần kinh có sự lãng quên do chưa hoặc không kịp ghi nhớ.

Các tế bào thần kinh truyền dẫn kích thích làm nhiệm vụ ghi nhớ tạm thời cũng chịu ảnh hưởng của đặc tính dễ hay khó chuyển hoá mà thực hiện việc ghi nhớ tạm thời cũng phải có sự tác động của yêú tố cần ghi nhớ lặp đi lặp lại một số lần mới thực hiện được, nhưng sự ghi nhớ tạm thời này lại lưu lại được trong một quãng thời gian đáng kể. Trong thực tế, các tế bào này làm nhiệm vụ ghi nhớ mới trong các hệ thần kinh bậc thấp, chưa có tế bào làm nhiệm vụ ghi nhớ mới chính thức, và trong quá trình tiến hoá, các tế bào này là khởi thuỷ của các tế bào ghi nhớ của hệ thần kinh và chuyển dần sang từ các tế bào màu trắng- là các tế bào không hoặc khó tái chuyển hoá sang các tế bào thần kinh màu xám dễ chuyển hoá hơn. Còn trong các hệ thần kinh bậc cao có các tế bào thần kinh dễ chuyển hoá, sự ghi nhớ tạm thời diễn ra nhanh, nhiều khi tạo nên cảm giác là sự ghi nhớ đã được ghi lại tức thời vì có thể tái hiện ngay chi tiết hay sự vật, sự việc sau khi kết thúc sự tác động của chi tiết hay sự vật, sự việc đó để ghi nhớ, mà thực tế chỉ là sự hoạt động dạng lưu hình của các tế bào thần kinh ghi nhớ tạm. Vì vậy để có sự ghi nhớ chính thức một cách chắc chắn phải kích hoạt sự ghi nhớ tạm thời nhiều lần để chuyển từ hình thức ghi nhớ tạm sang hình thức ghi nhớ chính thức.

Sự lãng quên do cường độ thể hiện sự ghi nhớ quá yếu

Trong trường hợp này, sự ghi nhớ chính thức đã được thực hiện, nhưng khi kích hoạt để thực hiện sự ghi nhớ thì do mức trưởng thành của tế bào thần kinh còn thấp, hoặc do số lượng tế bào tham gia vào việc ghi nhớ chi tiết hoặc sự vật, sự việc đó là quá ít, cho nên cường độ phát kích thích thứ cấp yếu, sự ghi nhớ không thể hiện ra được, hoặc hiện ra một cách mờ nhạt, không đầy đủ. Đặc điểm này thường có khi hệ thần kinh còn non yếu hoặc do nguyên nhân nào đó mà tốc độ trưởng thành của các tế bào thần kinh còn thấp. Sau một quãng thời gian nào đó, các tế bào thần kinh đạt một mức trưởng thành, cường độ hoạt động chức năng mạnh lên thì sự ghi nhớ đó được thể hiện một cách rõ ràng hơn. Khi ta ở vào lứa tuổi trung niên, ta sẽ cảm thấy những ký ức hoặc những sự kiện xảy ra khi ta đang ở trong trưởng thành được tái hiện rõ ràng, mạch lạc, điều mà trước đó, dù cố gắng hồi tưởng lại, ta cũng thấy khó khăn, có những việc tưởng chừng ta không nhớ, hoặc đã quên cũng có khả năng được tái hiện, điều này cũng có ý nghĩa là hệ thần kinh của ta thực tế đã ghi nhớ được nhiều điều hơn ta tưởng, vấn đề là ở chỗ làm kích hoạt được sự ghi nhớ đó. Điều này thường gọi là tiềm thức của hệ thần kinh.

Sự lãng quên do tái chuyển hoá

Đây thực sự là việc xoá bỏ những gì mà hệ thần kinh đã ghi nhớ, nhưng cũng là một hoạt động bình thường của hệ thần kinh. Các tế bào thần kinh đã được tái chuyển hoá để ghi nhớ về một vấn đề gì đó, do ít hoặc không được kích hoạt để thể hiện sự ghi nhớ, hay chúng không phải thực hiện hoạt động chức năng thần kinh, do đó chúng có cơ hội để thực hiện hoạt động sinh trưởng mạnh. Mặt khác do không hoạt động thể hiện sự ghi nhớ, cho nên chúng không chuyển dịch sự ghi nhớ cho tế bào thần kinh khác được. Cho nên khi chúng đạt tới một bậc chuyển hoá và có cơ hội chuyển hoá ngoài, chúng tiếp tục thực hiện tái chuyển hoá, từ bỏ sự ghi nhớ trước hay chức năng thần kinh trước để nhận việc ghi nhớ mới, và khi chúng hoạt động với sự ghi nhớ mới này, có nghĩa là chúng thực hiện một chức năng thần kinh mới.

Trong trường hợp này, muốn ghi lại điều ghi nhớ trước đó, chỉ có cách duy nhất là cho điều cần ghi nhớ tác động trở lại hệ thần kinh, hay nói cách khác là thực hiện việc học lại điều cần ghi nhớ đó và để cho một tế bào thần kinh khác thực hiện việc ghi nhớ thay cho tế bào đã từng đảm nhận ghi nhớ này.

Lãng quên do các tế bào ghi nhớ không hoạt động

Đây là sự lãng quên xảy ra sau khi các tế bào thần kinh chịu một sự tác động lớn, cường độ thần kinh kích thích quá mạnh vượt quá ngưỡng tiếp nhận kích thích, trong trường hợp này, để tự bảo vệ, các tế bào thần kinh thu hẹp phổ tiếp nhận kích thích thần kinh. Do đó, sau khi chấm dứt sự tác động của kích thích với cường độ cao, tế bào thần kinh không kích hoạt được với những kích thích thần kinh bình thường, không thực hiện được việc thể hiện sự ghi nhớ. Dạng phản xạ tự bảo vệ này giống như hình thức kết bào xác của một số vi khuẩn khi gặp điều kiện sống khó khăn, có nghĩa là các tế bào thần kinh kinh vẫn sống, vẫn giữ được những gì đã ghi nhớ, do đó chúng có khả năng phục hồi lại được hoạt động chức năng thần kinh. Dạng lãng quên này được gọi là sự lãng quên có phục hồi.

Quên do các tế bào thần kinh ghi nhớ bị chết

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến cái chết của tế bào thần kinh như bệnh lý, các tế bào thần kinh bị vi rút phá hoại, thiếu dưỡng khí hoặc các chất dinh dưỡng, bị nhiễm độc do độc tố hoặc chấn thương cục bộ v.v...Sự ghi nhớ trong trường hợp này không phục hồi lại được, nhiều khi còn xảy ra các trường hợp nhớ lẫn lộn, chi tiết của sự vật này lại được gắn vào sự vật khác, tính lô gích đã được thiết lập trong quá trình ghi nhớ bị phá vỡ, cho nên việc kích thích hoạt để thể hiện sự ghi nhớ đầy đủ về một sự vật hoặc một sự việc là khó khăn hoặc không thể thực hiện được.

Quên do các tế bào thần kinh đang ở trong trạng thái ức chế

Khi tế bào thần kinh đang ở trong trạng thái ức chế (sẽ được nói rõ hơn ở phần sau) thì mặc dù các kích thích sơ cấp nằm trong phạm vi tiếp nhận kích thích của tế bào thần kinh đó tác động lên chúng thì chúng cũng không thực hiện hoạt động chức năng thần kinh. Sự ghi nhớ không thể hiện được với sự lãng quên này, nhưng không có điều gì đáng ngại vì sau đó các tế bào thần kinh vẫn thể hiện lại được sự ghi nhớ. Nhưng trong nhiều trường hợp nhất thời lãng quên này mà ta có thể bị làm vào hoàn cảnh khó xử hoặc bỏ lỡ một cơ hội tốt. Sự ghi nhớ có thể tái hiện được ngay sau khi giải thoát các tế bào ghi nhớ khỏi trạng thái ức chế.

Quên do chưa tạo ra hoặc đứt liên kết ghi nhớ

Các tế bào dưới sự tác động của các đối tượng ghi nhớ đã chuyển hoá để ghi nhớ, nhưng giữa chúng chưa thiết lạp được liên kết hoặc liên kết bị đứt do một nguyên nhân nào đó thì khi tế bào trước hoạt động, chúng không kích thích các tế bào ghi nhớ tiếp theo. Đối tượng được ghi nhớ sẽ không thể hiện đầy đủ như khi nó tác động lên hệ thần kinh. Sự ghi nhớ được thể hiện rời rạc, không rõ ràng hoặc khó khăn.

Quên và hiện tượng nhớ lại của tuổi già

Chứng quên của tuổi già rất đa dạng và do nhiều nguyên nhân. Nhưng có thể kể đến các hình thái sau:

  • Quên do không thể ghi nhớ được.

Trường hợp này gần giống với trường hợp quên thứ nhất tức là không ghi nhớ được, nhưng có khác ở chỗ trong hệ thần kinh không còn tế bào thần kinh thực hiện sự ghi nhớ chính thức mà chỉ còn có các tế bào thực hiện sự ghi nhớ tạm thời, điều này có nghĩa là hệ thần kinh đã sử dụng hết các phần tử nhớ của mình và các phần tử này không còn khả năng tái chuyển hoá để thực hiện sự ghi nhớ mới. Do đa số các trường hợp đều xảy ra khi người hoặc động vật đã có thời gian sống lâu, cho nên có thể gọi chứng quên này là của tuổi già, nhưng cũng không loại trừ các trường hợp ít tuổi nhưng đã sử dụng hết bộ nhớ của hệ thần kinh và mức độ dễ tái chuyển hoá thấp. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định số lượng những vấn đề cần ghi nhớ cho một hệ thần kinh, tránh được việc sử dụng bộ nhớ vào những vấn đề không cần thiết, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả bộ nhớ sẽ giúp cho việc nâng cao năng lực hoạt động tư duy. Nếu không làm được điều này ngay từ khi con người còn ít tuổi thì sẽ có thể dẫn đến sự lãng phí lớn cho một số hệ thần kinh có mức trưởng thành cao từ sớm, có năng lực tư duy bộc lộ ra ngay từ khi còn ít tuổi, nhưng do mức trưởng thành cao, các tế bào thần kinh trở nên khó tái chuyển hoá mà các hệ thần kinh này dần dần mất đi năng lực sáng tạo, trở nên giáo điều và bảo thủ bởi không còn khả năng tiếp thu những điều mới mẻ. Nói cách khác, tận dụng hết công suất nhớ của hệ thần kinh quá sớm cũng không phải là một điều hoàn toàn hay.

  • Quên do các tế bào ghi nhớ không còn khả năng thực hiện hoạt động chức năng thần kinh.

Khi tuổi cao, các cơ quan chức năng khác làm các nhiệm vụ cung cấp dinh dưỡng. điều hoà môi trường trong cơ thể không còn hoàn thành được nhiệm vụ của mình, các tế bào thần kinh không còn nhận được đủ dinh dưỡng cho hoạt động chức năng thần kinh thì mặc dù chúng vẫn chịu sự tác động để thể hiện sự ghi nhớ nhưng không thực hiện được do không có năng lượng được giải phóng từ hoạt động phân giải từ dinh dưỡng và ô xi. Sự lãng quên này nhiều khi có biểu hiện giống với trường hợp lãnh quên thứ 5.

  • Sự nhớ lại của tuổi già.

Đây là biểu hiện của sự thoái triển của hệ thần kinh xảy ra trong trường hợp chức năng dinh dưỡng của cơ thể giảm sút mạnh, nhưng hô hấp và tuần hoàn vẫn duy trì tốt hoặc ở mức cao làm cho các tế bào thần kinh không nhận được các chất dinh dưỡng, nhưng lại nhận được đủ ô xi cho hoạt động chức năng thần kinh. Vì vậy, khi có kích thích để kích hoạt hoạt động chức năng thần kinh, các tế bào thần kinh sử dụng luôn các bào quan (là các bộ phận thực hiện các hoạt động chức năng thần kinh) của mình làm nguồn năng lượng cho kích thích thần kinh thứ cấp. Nếu các tế bào thần kinh này thực hiện tái chuyển hoá nhiều lần để ghi nhớ nhiều sự việc, sự vật khác nhau thì các bộ phận các bào quan được biến đổi phục vụ cho việc ghi nhớ, khi bị sử dụng vào việc phân giải để có năng lượng cho kích thích thứ cấp (thể hiện sự ghi nhớ) chúng sẽ bị phân giải lần lượt từ những bộ phận ghi nhớ mới nhất, khi các bộ phận này bị phân giải hết thì các bộ phận được chuyển hoá trước đó để ghi nhớ một sự kiện trước đó sẽ có thể hoạt động để thể hiện sự ghi nhớ này và tạo nên hiện tượng nhớ lại của tuổi già. Đây là hiện tượng của nhiều người cao tuổi thường gặp phải, những sự kiện hiện tại thì không thể nào nhớ được, nhưng những kí ức trước đây lại được thể hiện. Quá khứ trở lại với người già. Nhưng do các kích thích để thể hiện sự ghi nhớ mà các tế bào nhận được đã khác đi, nói cách khác sự gợi nhớ một đằng, nhưng sự nhớ lại thể hiện một nẻo, nên các kí ức được nhớ lại ít có khả năng đầy đủ, hay tính lôgích trong sự ghi nhớ bị rối loạn. Sự nhớ lại không đúng với hoàn cảnh hiện tại nhiều khi làm người ta hoang mang, không biết được hoàn cảnh hiện tại là thật hay là mơ. Sự nhớ lại càng rõ thì sẽ lấn át sự ghi nhớ tạm thời, do đó sự nhận thức hiện tại không thực hiện được, người ta quên ngay những gì đang xảy ra nhưng lại ghép những sự kiện những chi tiết của quá khứ cho những sự kiện đang xảy ra. Điều này tạo nên sự lẫn lộn trong hành vi. Với người có biểu hiện nhớ lại của tuổi già thì biểu hiện hoạt động tư duy vẫn còn nhưng ở dạng lầm lẫn, còn với những người không còn khả năng hoạt động chức năng thần kinh thị biểu hiện là đờ đẫn, thẫn thờ. Trong trường hợp nhớ lại, có nhiều khả năng dẫn đến teo não, còn trong trường hợp không hoạt động thần kinh não vẫn có thể giữ nguyên được khối lượng của nó nếu nó vẫn nhận được một lượng dinh dưỡng và ô xi tối thiểu để duy trì sự tồn tại của các tế bào thần kinh.

Thực ra, trong đời sống của mỗi cá thể, luôn diễn ra hai quá trình cùng một lúc, đó là sự phát triển và sự thoái triển, giai đoạn nào mà sự phát triển chiếm ưu thế thì người ta thấy được sự lớn lên. Giai đoạn nào mà sự thoái triển chiếm ưu thế thì cơ thể có biểu hiện nhỏ lại.Hai trạng thái này đạt sự cân bằng thì cơ thể không phát triển. Hệ thần kinh là một bộ phận của cơ thể cho nên cũng nằm trong các trạng thái đó. Nhưng do đặc điểm của riêng mình mà hệ thần kinh phát triển chậm hơn nhưng sự thoái triển có thể diễn ra nhanh hơn (tuỳ theo từng cá thể) so với sự phát triển và thoái triển chung của cơ thể.

Sự thoái triển của hệ thần kinh tuổi già thường dẫn đến sự nhớ lại kí ức, nhưng sự thoái triển của các tế bào thần kinh có mức trưởng thành thấp (hệ thần kinh trẻ) thường dẫn đến giảm cường độ thể hiện sự ghi nhớ, và đó là sự lãng quên thứ 2. Sự thoái triển ở tuổi trẻ thường xảy ra khi hệ tiêu hoá kém hoặc yếu tim, thiếu máu..., nói chung là thiếu dinh dưỡng, điều này làm cho sự ghi nhớ của hệ thần kinh giảm sút, dễ quên. Sự thoái triển còn xảy ra trong trường hợp các tế bào hoạt động chức năng thần kinh quá mạnh làm cho các bào quan bị phá huỷ, hoặc tính bền được tạo lập cho cấu trúc chức năng của tế bào là yếu, dễ bị tan rã nên cùng dẫn đến sự quên lãng.

Vai trò của sự ghi nhớ và lãng quên trong hoạt động thần kinh

Sự ghi nhớ và lãng quên giữ vai trò quan trọng trong hoạt động của hệ thần kinh. Đặc biệt là vai trò của sự ghi nhớ mới. Sự lãng quên cũng có vai trò của nó và nếu không nhận ra điều này thì có thể làm hạn chế hoạt động của hệ thần kinh.

Cơ sở quan trọng nhất của hoạt động thần kinh cao cấp là sự ghi nhớ mới. Nếu hệ thần kinh không ghi nhớ được thì hoạt động thần kinh mang tính bản năng. Tác dụng của ghi nhớ chịu sự chi phối của khả năng ghi nhớ, hình thức ghi nhớ và thể hiện sự ghi nhớ. Khả năng ghi nhớ tốt giúp hệ thần kinh ghi nhớ được nhiều tác động của môi trường sống, giúp hệ thần kinh có nhiều tài nguyên để tư duy. Nhưng nếu ghi nhớ quá nhiều mà không có phương thức thể hiện ghi nhớ phù hợp thì nhiều khi kết quả lại ngược lại. Nhiều sự ghi nhớ cùng xuất hiện sẽ khiến cho hệ thần kinh phải thực hiện sự lựa chọn và do đó tốc độ phản ứng thần kinh sẽ bị chậm. Trong những trường hợp khẩn cấp đòi hỏi có sự quyết đoán nhanh thì việc mất quá nhiều thời gian cho lựa chọn phản ứng sẽ đem lại bất lợi. Nếu đã có nhiều sự ghi nhớ thì việc quên một số ghi nhớ lại mang ý nghĩa tích cực. Khả năng ghi nhớ tốt, ghi nhớ được nhiều không phải là điều kiện tiên quyết hay điều kiện quan trọng nhất trong hoạt động thần kinh cao cấp. Cái quan trọng nhất là cái cách mà hệ thần kinh thể hiện được những cái đã ghi nhớ. Có những cái đã ghi nhớ chỉ được thể hiện khi có tác động của các yếu tố làm nên sự ghi nhớ đó hoặc các yếu tố tương tự, có những cái ghi nhớ lại được thể hiện khi chịu tác động của các tế bào thần kinh khác đang hoạt động, có những cái được thể hiện khi có tác dụng của các chất kích thích. Trường hợp thể hiện thứ ba thường có tác dụng hỗ trợ cho hai trường hợp trước. Trường hợp thứ nhất thể hiện khả năng hạn chế về tư duy. Hệ thần kinh chỉ hoạt động khi có tác động tư bên ngoài, còn trường hợp thứ hai giúp cho hệ thần kinh có khả năng tư duy và nếu mức độ thể hiện được càng nhiều thì năng lực tư duy càng cao, các ý nghĩ, các hình ảnh của sự tưởng tượng xuất hiện càng nhiều và giúp cho hệ thần kinh tìm được các giải pháp tốt nhất cho phản ứng thần kinh. Khi hệ thần kinh ghi nhớ nhiều và liên kết ghi nhớ là bền chắc thì các ghi nhớ được thể hiện đúng những cái đã làm nên sự ghi nhớ. Sự liên kết ghi nhớ là không có thì các ghi nhớ sẽ không thể hiện đúng như những gì đã xảy ra, câu nói, hình ảnh bị xáo trộn, bị hoán đổi, bị thay thế. Điều này có thể thấy trong các giấc mơ. Một đặc điểm của tư duy sáng tạo là việc làm biến đổi các lời nói, các hình ảnh hay đơn giản là làm khác đi những cái đã có. Sự liên kết không bền giữa các tế bào ghi nhớ có thể giúp cho điều này được thực hiện. Có nghĩa là để có tư duy sáng tạo thì mối liên kết giữa các tế bào thần kinh ghi nhớ dễ bị đứt và thay thế bằng mối liên kết mới với các tế bào ghi nhớ khác. Liên kết ghi nhớ bị đứt thì việc thể hiện ghi nhớ khó được thực hiện (nếu không thiết lập được liên kết mới). Đây là một hình thức quên. Như vậy, liên kết ghi nhớ bền vững và tư duy sáng tạo là hai kẻ đối nghịch nhau. Nếu rèn luyện để hệ thần kinh ghi nhớ tốt (theo nghĩa sự ghi nhớ sẽ thể hiện đúng với những cái làm ghi nhớ hay còn gọi là học thuộc lòng ) thì năng lực tư duy sáng tạo sẽ bị thu hẹp hoặc mất đi, hệ thần kinh chỉ còn là một bộ từ điển hay băng cát-sét. Rèn luyện sự ghi nhớ theo hướng tích cực nhất là rèn luyện bằng hoạt động tư duy của hệ thần kinh chứ không phải bằng cách ôn lại những cái đã ghi nhớ. Rèn luyện bằng cách này sẽ làm cho các ghi nhớ không bị mất đi nhưng liên kết giữa chúng luôn thay đổi và do đó năng lực tư duy sáng tạo được nâng lên, những ghi nhớ chưa được kích hoạt trong trường hợp nào đó sẽ trở thành tiềm thức, chúng tạm thời bị lãng quên và có thể trở thành những cái có giá trị rất cao khi xuất hiện đúng lúc.
Copy từ trang http://thuvienkhoahoc.com

Phương thức hoạt động của hệ thần kinh cao cấp

Những yếu tố chính ảnh hưởng đến hoạt động của hệ thần kinh

Trong cuộc sống thường nhật, ai cũng có thể được tiếp xúc, được thấy ở xung quanh và ngay trong bản thân mình những hiện tượng khác nhau biểu thị cho hoạt động của hệ thần kinh như sự ghi nhớ của người này là rất tốt, người kia là kém; có người nói năng lưu loát, có người người này thì nhanh nhẹn, hoạt bát, còn người khác thì chậm chạp, trì trệ; có người thông minh, lanh lợi, có người đần độn, ngốc ngếch; có người khéo léo, có người vụng về; có người nói năng rõ ràng, mạch lạc, có người nói năng ấp úng, trình bày câu nói khó khăn, có những người luôn tiến hành công việc rất máy móc, có người tìm được nhiều cách làm việc mới có hiệu quả cao, có người có khả năng tính toán kỳ diệu nhưng lại không thể xây dựng được một công trình nghiên cứu toán học nào, có người say mê hội họa, có người say mê âm nhạc, có người say mê toán học, v.v...Có thể nói rằng các hiện tượng này là rất nhiều. Sự khác nhau này không chỉ do khác về môi trường sống, về sự giáo dục, mà còn khác nhau giữa những người sống trong cùng một môi trường, cùng một phương pháp giáo dục, cùng được tiếp thu một loại kiến thức, và hơn thế còn được cùng bố mẹ sinh ra. Nếu xét trong sự hoạt động của máy tính mà chúng ta gọi là các bộ óc nhân tạo thì cùng một cấu hình, cùng một loại dữ liệu thì các máy tính khác nhau vẫn cho những kết quả xử lý giống nhau. Nhưng với các hệ thần kinh - trừ những trường hợp phải xử lý theo những quy định cụ thể (như giải các bài toán theo những công thức cho trước) - có những kết quả không giống nhau với cùng yêu cầu xử lý. Điều này cho thấy có sự khác nhau trong hoạt động của các hệ thần kinh. Sự khác nhau như nêu ở trên là rất đa dạng. Sự đa dạng này gây nên nhiều khó khăn cho việc nghiên cứu sự hoạt động của hệ thần kinh. Nếu chỉ nhìn vào sự thể hiện đa dạng đó thì chúng ta khó nhận ra điều gì. Nhưng có những điểm chung mà chúng ta có thể dựa vào đó để nghiên cứu về hoạt động thần kinh, đó là sự ghi nhớ và sự liên kết trong ghi nhớ.

Sự ghi nhớ thể hiện ở khả năng ghi nhớ. Khả năng ghi nhớ có các biểu hiện:

  • Ghi nhớ hoặc không ghi nhớ được.
  • Tốc độ ghi nhớ (nhanh hay chậm).
  • Lĩnh vực ghi nhớ (lĩnh vực nào dễ nhớ, lĩnh vực nào khó nhớ).
  • Phương thức ghi nhớ (hình ảnh, âm thanh, một lần hay phải lặp đi lặp lại, liên tục hay đứt đoạn).
  • Mức độ ghi nhớ (rõ ràng, đầy đủ hay mờ nhạt, khiếm khuyết).
  • Cách thức hiển thị những cái đã ghi nhớ (hình ảnh hay âm thanh).

Khả năng ghi nhớ không đi cùng sự hiển thị những cái đã ghi nhớ. Đây là một điểm quan trọng trong việc đánh giá sự hoạt động và năng lực của hệ thần kinh. Sự hiển thị những cái đã ghi nhớ bị chi phối bởi các yếu tố sau:

  • Khả năng dễ hoặc khó kích hoạt của các tế bào thần kinh ghi nhớ.
  • Sự liên kết giữa các tế bào ghi nhớ.

Khả năng dễ hoặc khó kích hoạt các tế bào ghi nhớ ảnh hưởng đến sự hiển thị những cái ghi nhớ dưới các dạng hiển thị hay không hiển thị, tốc độ hiển thị nhanh hay chậm. Khi tế bào ghi nhớ khó kích hoạt thì sự ghi nhớ nhiều khi trở thành vô dụng bởi nó không khác với trường hợp không ghi nhớ được. Tốc độ hiển thị ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ hoạt động của hệ thần kinh (nhanh nhẹn hay chậm chạp). Sự liên kết giữa các tế bào ghi nhớ là yếu tố chi phối nhiều nhất đến sự hoạt động của các hệ thần kinh cao cấp. Sự liên kết này có những biểu hiện:

  • Có hoặc không có liên kết.
  • Dễ hoặc khó tạo liên kết.
  • Liên kết bền vững hay không bền vững.
  • Liên kết theo chiều ngang hay theo chiều dọc.
  • Liên kết đơn hay liên kết phức hợp.

Một đối tượng tác động lên hệ thần kinh có thể trong một khoảng thời gian ngắn với một lần tác động, hoặc có thể trong một thời gian dài với nhiều lần, có thể tác động với toàn bộ hoặc một số trong các chi tiết của nó. Mỗi hệ thần kinh ghi nhớ sự tác động đó theo điều kiện hay khả năng riêng. Mỗi tế bào thần kinh là một điểm ghi nhớ, vì vậy nó không thể ghi nhớ được toàn bộ các chi tiết, các cách thể hiện của đối tượng. Một đối tượng sẽ được rất nhiều tế bào thần kinh ghi nhớ khi nó tác động lên hệ thần kinh. Đối tượng sẽ được hiển thị đầy đủ trong trí nhớ khi tất cả các tế bào ghi nhớ về nó được kích hoạt. Nhưng điều này không thường xuyên xảy ra và trong nhiều trường hợp các tế bào đó không được kích hoạt đồng thời và không đầy đủ, có khi những tế bào ghi nhớ sau lại được kích hoạt trước; có khi những sự ghi nhớ về đối tượng khác lại được kích hoạt trong khi những chi tiết thuộc đối tượng hiện tại lại không hiển thị, có chi tiết của đối tượng được hiển thị trong lần kích hoạt này nhưng không được được hiển thị trong những lần sau. Nguyên nhân của hiện tượng này được giải thích bằng sự liên kết giữa các tế bào ghi nhớ trong hệ thần kinh. Sự liên kết này không chỉ bao gồm liên kết giữa các tế bào ghi nhớ về cùng một đối tượng mà còn là sự liên kết giữa các tế bào ghi nhớ về các đối tượng khác nhau và các thời điểm ghi nhớ khác nhau. Khi giữa các tế bào ghi nhớ về cùng đối tượng không có sự liên kết thì khó thực hiện được sự kích hoạt các tế bào, do đó mặc dù có sự ghi nhớ, nhưng sự ghi nhớ không được hiển thị. Với trường hợp đối tượng tác động theo thời gian, các tế bào ghi nhớ theo trình tự thì việc không có liên kết giữa các tế bào ghi nhớ dẫn đến việc quên nhiều chi tiết thuộc về đối tượng đối tượng. Việc có hay không có liên kết này chịu sự chi phối của khả năng dễ hay khó hình thành mối liên kết, liên kết bền hay không bền. Mối liên kết không bền cũng làm mất sự liên kết mặc dù liên kết có thể đã được tạo ra. Sự thể hiện ra bên ngoài của việc các tế bào ghi nhớ có liên kết hay không, liên kết bền hay không bền qua các hiện tượng như khả năng trình bày rõ ràng, mạch lạc hay nói năng ấp úng, trình bày lộn xộn, sự ghi nhớ lúc này là có, lúc khác là không...Sự ghi nhớ tốt, dễ tạo liên kết nhưng liên kết kém bền, tế bào ghi nhớ dễ kích hoạt tạo nên sự ghi nhớ lẫn lộn, nhiều đối tượng được hiển thị với các chi tiết rời rạc, chi tiết của đối tượng này được gán cho chi tiết của đối tượng khác...Liên kết hường được hình thành theo chiều ngang khi có nhiều tế bào ghi nhớ được hình thành từ kích thích đồng thời của một nhóm tế bào thần kinh. Liên kết theo chiều ngang xác định mối liên hệ giữa các đối tượng khác nhau hoặc các chi tiết của các đối tượng đó, giữa các đối tượng có liên quan với nhau hoặc được ghi nhớ tại cùng thời điểm với đối tượng. Còn liên kết theo chiều dọc là liên kết được hình thành giữa tế bào ghi nhớ trước và tế bào ghi nhớ sau. Liên kết theo chiều ngang thường ghi nhớ về hình ảnh và thể hiện cho tính chất tĩnh, còn ghi nhớ theo chiều dọc là sự ghi nhớ về quá trình, về câu nói. Liên kết theo chiều ngang thể hiện sự ghi nhớ về nhiều đối tượng, còn liên kết theo chiều dọc thể hiện các chi tiết, nội dung, quá trình vận động hay tính chất động của đối tượng,. Những đặc điểm riêng của từng hình thức liên kết này có ảnh hưởng đến tính chất tư duy trên hai mặt: hiểu và biết. Tư duy theo liên kết ngang thể hiện khả năng biết nhiều đối tượng, còn tư duy theo liên kết dọc thể hiện khả năng hiểu về một đối tượng. Tư duy theo liên kết ngang là tư duy theo bề rộng, nó cung cấp khả năng tìm kiếm đối tượng hoặc các chi tiết có thể thay thế, bổ xung, đem đến khả năng khái quát và năng lực tổng hợp. Trong liên kết ngang, khi có một sự kích thích thì các tế bào ghi nhớ trong liên kết được kích hoạt mặc dù có thể không cùng đối tượng ghi nhớ, do đó nó giúp cho việc chọn lựa phương án phản ứng phù hợp nhất với tác nhân kích thích. Điều này có thể được so sánh với việc truy tìm dữ liệu trong máy tính. Khi gõ một tự khóa vào ô tìm kiếm, máy tính sẽ hiển thị những dữ liệu có liên quan đến từ khóa đó. Nhưng sự khác nhau giữa máy tính và hệ thần kinh trong trường hợp này là máy tính thể hiện dữ liệu chứa đúng từ khóa, còn hệ thần kinh thể hiện bất kỳ cái gì trong liên kết đó. Khi kích hoạt sự ghi nhớ theo kiên kết dọc, các chi tiết của một đối tượng sẽ được hiển thị theo thứ tự trong liên kết. Tư duy theo liên kết dọc là tư duy theo chiều sâu, tư duy về nội hàm của đối tượng, nó xác định quy mô, đặc điểm, tính chất của đối tượng, mối liên hệ giữa các chi tiết của đối tượng và tạo nên năng lực phân tích, sắp xếp, tổ chức...Liên kết giữa các nốt nhạc là liên kết dọc, còn liên kết giữa nốt nhạc với ca từ là liên kết ngang. Tư duy về cấu trúc của máy tính là tư duy theo chiều dọc, còn việc chọn lựa các bộ phận trong cấu trúc đó từ các hãng sản xuất khác nhau là tư duy theo chiều ngang. Liên kết đơn theo chiều ngang tạo nên sự nông cạn trong tư duy biểu hiện ở sự biết nhiều nhưng sự hiểu là không có hoặc không sâu. Liên kết đơn theo chiều dọc lại hạn chế sự nắm bắt nhiều đối tượng nhưng cung cấp khả năng hiểu sâu và nắm vững đối tượng. Mối liên kết bền vững cung cấp khả năng hiển thị đối tượng đầy đủ và chính xác, còn sự ghi nhớ kém bền đưa đến sự dễ quên, các đối tượng không được hiển thị đủ các yếu tố, các chi tiết của nó mặc dù các tế bào ghi nhớ về đối tượng vẫn nguyên vẹn. Liên kết không bền nhưng mối liên kết mới giữa các tế bào ghi nhớ cũ rất dễ được tạo ra thì có thể làm cho đối tượng bị biến đổi trong hiển thị bởi một số chi tiết của đối tượng không được hiển thị mà bị (hoặc được) thay thế bởi các chi tiết của đối tượng khác, v.v...

Liên kết phức hợp là sự liên kết trong đó có cả liên kết ngang và liên kết dọc. Trong các mối liên kết ngang có các liên kết dọc và trong liên kết dọc xuất hiện các liên kết ngang. Liên kết phức hợp đảm bảo khả năng hiểu biết và các mối liên hệ của đối tượng.

Sự hình thành ba phương thức hoạt động cao cấp của hệ thần kinh

Sự cấu thành và mức độ của các yếu tố ghi nhớ và liên kết ghi nhớ trong hệ thần kinh phụ thuộc vào tính chất cấu tạo của riêng hệ thần kinh. Sự tổ hợp các yếu tố đó và kết hợp với một số yếu tố khác bên ngoài hệ thần kinh đã tạo nên đặc điểm riêng trong hoạt động của từng hệ thần kinh. Có rất nhiều tổ hợp và do đó có rất nhiều phương thức hoạt động khác nhau. Điều này lý giải cho sự đa dạng, sự khác nhau về năng lực và về tính chất hoạt động của các hệ thần kinh khác nhau. Nhưng mọi cách thức riêng lẻ đều có thể quy về ba phương thức chính, đó là phản ứng thần kinh, hoạt động sáng tạo và hoạt động trí tuệ. Phản ứng thần kinh là tổ hợp của khả năng ghi nhớ được và mối liên kết đơn theo chiều dọc hoặc theo chiều ngang. Tư duy trong phương thức phản ứng thần kinh thực chất chỉ là sự nhớ lại, hồi tưởng lại về đối tượng. Phản ứng thần kinh với liên kết bền có các biểu hiện như nhanh nhẹn, chính xác, thuần thục, bảo thủ, giáo điều, cố chấp..., liên kết không bền là sự rời rạc, chắp vá, quên trong việc nhớ lại các chi tiết của đối tượng.

Liên kết phức hợp là cơ sở cho hoạt động sáng tạo và hoạt động trí tuệ. Liên kết phức hợp giúp cho tư duy đang phát triển theo chiều ngang để tìm hướng đi có thể chuyển theo chiều dọc để đi sâu vào những vấn để cụ thể hoặc tìm những yếu tố hợp lý nhất cho đối tượng. Đây là khả năng liên tưởng giữa các đối tượng khác nhau, nó tạo cho trí nhớ một sự liên hệ từ các chi tiết của đối tượng này tới các chi tiết của đối tượng khác, nó có thể thay thế, biến đổi, lắp ghép các chi tiết thuộc các đối tượng khác nhau để thay đổi đặc điểm, tính chất, quy mô của đối tượng hoặc tạo ra đối tượng mới. Sự liên kết phức hợp có thể là phức hợp đơn khi số lượng các lớp, các cấp liên kết là không nhiều. Nhưng nó sẽ là liên kết phức hợp đa tạp khi số lượng các lớp, các cấp tăng lên với số lượng đáng kể và do đó làm tăng năng lực hoạt động thần kinh. Biểu hiện của liên kết phức hợp là khả năng phân tích, khái quát, tổng hợp, liên tưởng, khả năng sáng tạo cái mới trên cơ sở những cái cũ, các sáng kiến, sáng chế, phát minh. Phương thức hoạt động sáng tạo xuất phát từ sự tổ hợp của khả năng dễ ghi nhớ, ghi nhớ được nhiều đối tượng ở nhiều lĩnh vực khác nhau, dễ tạo ra các mối liên kết ghi nhớ và các mối liên kết có tính bền, còn hoạt động trí tuệ là tổ hợp của khả năng dễ ghi nhớ, ghi nhớ được rất nhiều đối tượng khác nhau, dễ tạo liên kết nhưng các liên kết ghi nhớ kém bền vững. Một đối tượng rơi vào sự ghi nhớ với liên kết không bền sẽ bị chia nhỏ ra thành các chi tiết và các chi tiết này bị mất liên kết với nhau. Liên kết mới dễ được tạo ra với các chi tiết của các đối tượng khác còn liên kết bên trong đối tượng bị xóa làm cho đối tượng hiển thị bị sai lệch. Đây là nguyên nhân làm cho nhiều thiên tài khoa học rất sợ các bài học thuộc lòng, là nguyên nhân của nhiều hành vi sai lạc và sự biến dạng của các giấc mơ trong phát hiện của Freud. Sự dễ tạo liên kết làm cho đối tượng hoặc chi tiết của đối tượng được nhớ (hiển thị) vào những thời điểm không thích hợp dễ dẫn đến sự hiểu lầm hoặc sự đánh giá không hay về dạng hoạt động thần kinh này. Khả năng dễ bị mất và dễ tạo liên kết giúp cho hệ thần kinh hoạt động trí tuệ có khả năng tạo ra các liên kết phức hợp rất linh hoạt. Hoạt động trí tuệ có thể làm mất liên kết giữa các chi tiết cùng đối tượng, như lại tạo được liên kết giữa các chi tiết hoặc các đối tượng trong các lĩnh vực khác nhau, giữa các đối tượng không đồng thời tác động lên hệ thần kinh, nó có thể tạo kiên kết chéo hoặc đảo ngược liên kết, vì vậy nó tạo được đối tượng mới ngay trong hệ thần kinh trên cơ sở lắp ghép các chi tiết rất nhỏ của các đối tượng được ghi nhớ. Và cũng nhờ khả năng này, nó bổ xung những chi tiết mà đối tượng chưa cung cấp cho việc ghi nhớ (nhưng chi tiết chưa được các cơ quan cảm giác tiếp nhận) bằng cách lấy các chi tiết của đối tượng khác để liên kết với các chi tiết của đối tượng, giúp cho đối tượng được nhận thức rõ ràng, đầy đủ hơn. Sự nhìn nhận đối tượng rõ ràng hơn, đầy đủ hơn so với những các mà đối tượng cung cấp cho hệ thần kinh qua trực giác đã được Shakespeare gọi bằng khái niệm “Nhìn bằng khóe mắt của trí óc”. Khi khối lượng tri thức được tích lũy đến một mức nào đó và một số liên kết đặc biệt được hình thành, hoạt động trí tuệ có thể tạo nên những đột phá, những thay đổi kỳ diệu trong nhận thức. Trong hoạt động sáng tạo, các mối liên kết là bền nên liên kết bên trong đối tượng tồn tại cùng với liên kết được sử dụng. Điều này có nghĩa là mặc dù đã có cái tốt hơn để dùng nhưng hệ thần kinh vẫn không quên cái cũ. Hoạt động trí tuệ thay thế liên kết cũ bằng cái mới và khi cái mới được tạo ra thì liên kết cũ bị xóa bỏ. Để nhớ lại cái cũ, hoạt động trí tuệ phải học lại hoặc cho đối tượng tác động trở lại như lần đầu. Nếu những hệ thần kinh có liên kết phức hợp bền hoạt động tốt trong lĩnh vực vận dụng tri thức (phương thức hoạt động sáng tạo) thì hoạt động trí tuệ mang đến khả năng tạo ra tri thức mới. Những hệ thần kinh có hoạt động trí tuệ phù hợp với hoạt động nghiên cứu khám phá. Các phương thức hoạt động thần kinh được thể hiện không chỉ trong lúc làm việc và tư duy, mà nhiều khi còn trong các giấc mơ. Vì vậy, các giấc mơ cũng góp một phần vào sự đánh giá phương thức hoạt động của hệ thần kinh.

Sơ đồ đơn giản về các phương thức hoạt động của hệ thần kinh

Chúng ta có thể thiết lập được một số sơ đồ đơn giản về sự hình thành các phương thức hoạt động cao cấp của hệ thần kinh. Trong các sơ đồ này, các đối tượng được mô tả là các chữ cái, còn các chi tiết của nó được mô tả kết hợp giữa chữ cái biểu thị đối tượng và số thứ tự của chi tiết. Các đối tượng là a,b,c,d,e..., các chi tiết sẽ là a1,a2,a3, b1,b2, b3...Các liên kết trong phản ứng thần kinh theo chiều ngang là a1-b1-c1-e1 hoặc a1-b1-c2-d1, theo chiều dọc là sự liên kết giữa các chi tiết trong cùng đối tượng (có thể đủ hoặc không đủ các chi tiết). Liên kết phức hợp trong hoạt động sáng tạo có ba mức: mức sáng kiến khi một số chi tiết của đối tượng được thay thế bằng một số chi tiết của một số đối tượng khác, mức sáng chế hoặc sáng tác được hình thành bắt đầu bởi sự tác động của một đối tượng đã được ghi nhớ, nhưng các chi tiết của nó đã được thay thế hoặc biến đổi từ các chi tiết của các đối tượng khác, còn phát minh không có yêu cầu tác động của đối tượng mà nó xuất hiện trong quá trình hiển thị và biến đổi, kết hợp các chi tiết để tạo ra đối tượng mới. Sơ đồ mô tả sáng kiến là a1-a2-b2-b3-c4-a5, sáng chế là a1-a2-b2-cb-d5, phát minh có thể là a3-b3-b4-a4-a5-c5-h8. Sự phân biệt các mức trong hoạt động sáng tạo thể hiện ở điểm bắt đầu và kết thức của đối tượng. Điểm đầu và cuối của sáng kiến là cùng thuộc một đối tượng (đối tượng chỉ thay đổi một số trong nội dung). Sáng kiến làm thay đổi, bổ xung hoặc cắt bớt một số đặc điểm, tính chất theo hướng tốt hơn. Sáng chế là biểu hiện của nhu cầu thay thế một đối tượng cũ bằng một đối tượng mới, vì vậy điểm bắt đầu là của đối tượng cũ, còn điểm cuối là chi tiết của đối tượng mới. Còn phát minh là sự phát hiện ra đối tượng mới thông qua sự kích hoạt nhiều lần sự ghi nhớ các chi tiết của các đối tượng theo các liên kết phức hợp khác nhau, thông qua đó mà đối tượng mới hình thành ngay trong hệ thần kinh. Điểm đầu của phát minh có thể là điểm đầu hoặc tại một điểm nào đó của đối tượng. Phát minh tạo ra nhu cầu mới cho cuộc sống. Sơ đồ của hoạt động trí tuệ là mọi sự liên kết mà hệ thần kinh có thể tạo ra giữa các chi tiết của bất kỳ đối tượng nào. Sơ đồ này cũng là sơ đồ của các chứng rối loạn thần kinh (trong đó có chứng hoang tưởng). Tính chất trí tuệ chỉ được thực hiện khi hệ thần kinh có khả năng và duy trì được khả năng kiểm soát, định hướng và chọn lọc các liên kết. Ba phương thức hoạt động cao cấp của hệ thần kinh đều có trong bộ não của mỗi người nhưng với những tỷ lệ khác nhau. Hiểu được năng lực và các phương thức hoạt động thần kinh của từng các nhân có ý nghĩa lớn trong việc phát huy hiệu quả trong làm việc, học tập và nghiên cứu khoa học.

Sưu tầm

Chụp ảnh bằng máy tự động

Kỹ thuật số phát triển, Máy ảnh càng nhỏ nhẹ, độ phân giải cao, lại rất rẻ. Ai cũng có thể trang bị cho mình để ghi lại những khoảng khắc đáng nhớ. Phục vụ những nhiếp ảnh gia không chuyên nên nhà sản xuất họ để chế độ tự động nhiều quá. Người sử dụng khó thiết lập theo ý mình. Tìm đọc trên mạng chỉ thấy phổ biến kinh nghiệm sử dụng máy DSLR, chẳng thấy trang nào dành cho máy tự động. Đành phải tự rút kinh nghiệm, viết mấy dòng cho bà con đọc góp ý.
1. Cách cầm máy

Máy tự động không áp mắt vào được để có thêm điểm tựa, càng lớn tuổi lại phải đưa máy càng xa, để xa tay càng run. Chụp xong về thấy ảnh không được ưng ý, vừa tiếc vừa bực. Quyết luyện công mình mới thử đủ kiểu cầm máy. Hóa ra cái lỗi cơ bản nhất là đỡ máy bằng ngón tay cái. Đặt ngón cái tay phải ở mọi vị trí chẳng thấy chỗ nào ổn, không bị chúi thì lại bị xoay máy. Bà con nào chụp chỉ nhấn giữ một lần, máy phải sử lý 2-3 giây (đo sáng chỉnh nét) xong mới chụp, hóa ra ngẫu nhiên hết rung. Nhấn 1/2 đo sáng chỉnh nét rồi mới nhấn sâu để chụp dễ bị rung. Tốt nhất cứ cầm thử máy ở các kiểu để kiểm chứng và tìm ra các cầm tối ưu cho riêng mình
2. Tìm hiểu menu
Menu càng nhiều càng cho phép chỉnh thiết lập theo ý mình. Với mỗi menu hãy gõ vào google mà tìm đừng nên tra từ điển. Vấn đề cần hiểu là có thiết lập chỉ cho tấm ảnh sẽ chụp, có thiết lập cho phiên làm việc, có thiết lập được lưu cho đến khi ta thay đổi. Nhắc chung vậy thôi mỗi đời máy 1 kiểu, muốn nâng cao kỹ năng thì nghiên cứu còn không cứ auto mà đặt.
3. Đo sáng lấy nét
Khi chụp người lại không muốn để giữa ảnh vì cần phong cảnh, người sẽ bị nhòe, có khi lại bị quá sáng hoặc quá tối. Vì máy ưu tiên đo vùng trung tâm ảnh, nó sẽ chỉnh trung tâm đúng sáng và nét nhất. Đơn giản, hãy đo vào người bằng cách nhấn 1/2 nút chụp giữ ở vị trí đó (khi đèn báo nháy đo xong) rồi hướng máy để lấy khung nhấn sâu thêm chụp. Chú ý nhấn lần 2 hay bị rung tay do thao tác là chụp liền. Nên thiết lập đo sáng trung tâm ( centre ) hay đo sáng điểm ( spot )
4. Chụp trời nắng
Người chụp thường đứng trong bóng râm, mình lại là tay săn ảnh chứ không phải là đạo diễn đành phải lựa theo họ. Bắt buộc phải dùng đèn flash, chỉnh sáng không ăn thua, hoặc là người bị tối hoặc là cảnh bị cháy sáng.
5. Chụp đêm, trong phòng ban ngày nhưng thiếu sáng
Để tự động là máy chụp có đèn, trong cự ly 2-3m flash làm việc tốt, nhưng xa hơn thì tối thui. Muốn lấy thêm phông cảnh chỉ có cách tắt đèn, tăng EV. Lười chỉnh EV thì cứ chĩa đo sáng vào chỗ tối hơn ( đừng quá tối ) chờ khi đèn báo đo xong chuyển qua lấy khung nhấn chụp. Chụp ánh sáng yếu hay bị nhòe do cửa chập mở lâu, tay run. nên đế máy cho chắc.