112 Khương thượng Hà nội * ĐT: 0438538337 * * Mobile: 0912445252 * * Sửa chữa, mua bán, trao đổi máy giặt, tủ lạnh, điều hòa; vỏ, lồng máy giặt và linh kiện điện lạnh
CHỨNG TỰ KỶ VÀ TẬT HIẾU ĐỘNG THIẾU CHÚ Ý
Bác sĩ Avril Brereton
Chứng Tự Kỷ và Tật Hiếu Động Thiếu Chú Ý là hai loại bệnh chính về sự phát triển thần kinh, bắt đầu lúc trẻ còn nhỏ. Những triệu chứng của việc thiếu sức chú ý và hiếu động là vấn đề thường gặp nơi trẻ tự kỷ. Vấn đề hiếu động quá mức, thiếu chú ý và hành vi bốc đồng nơi trẻ nhỏ không phải là chuyện mới mẻ, mà đã được tài liệu y khoa mô tả từ thế kỷ 19.
Nguyên nhân của chứng ADHD là gì ?
Những lý thuyết hiện thời cho là có sự tương tác giữa
- đặc tính di truyền
- hệ thần kinh trung ương hoạt động bất toàn do có chấn thương trước hay sau khi sinh, hay gặp biến cố có độc tính, và
- ảnh hưởng của môi trường và xã hội
ADHD được định bệnh ra sao ?
Việc định bệnh được dựa trên nhận xét do khám nghiệm là có đủ triệu chứng về việc không chú ý và hiếu động/bốc đồng cùng với quyết định là các triệu chứng này gây ra hư hại đáng kể trong sinh hoạt hằng ngày trong ít nhất hai lần khung cảnh, và không phù hợp với mức phát triển của trẻ. Việc định bệnh đòi hỏi có quá trình cẩn thận và đầy đủ về sự phát triển và hành vi của trẻ, do cha mẹ và người biết chuyện như thầy cô cho biết, cùng với sự quan sát về trẻ khi có sinh hoạt tự do lẫn sinh hoạt theo qui củ. Cuộc thẩm định theo qui củ về tri thức, ngoài việc cho thông tin về những khó khăn riêng biệt về học tập và các vấn đề liên hệ như khiếm khuyết về ký ức thính giác ngắn hạn, cũng sẽ làm lộ các trục trặc về sự định trí và tính dễ bị chia trí.
Triệu Chứng rao sao ?
Ngoài việc rất dễ bị chia trí và thiếu chú ý, trẻ có chứng ADHD:
- thiếu óc tổ chức và thường không thể làm theo thông lệ hay hoàn tất việc được giao phó
- khó mà theo dõi hành vi của mình và do đó hay ngắt lời người khác
- khó làm theo luật
- có hành vi không thích hợp và bốc đồng
Trẻ nào còn bị thêm tính hiếu động:
- thường xuyên chộn rộn và táy máy ngọ nguậy
- khó mà ngồi yên chỗ
- làm như có động cơ máy thúc đẩy em
Những hành vi này chịu ảnh hưởng của môi trường và mức độ của kích thích bên ngoài và sự phức tạp của cảm quan. Vì vậy, người quan sát có thể ghi nhận khác biệt về hành vi dựa trên tính cách của môi trường. Thí dụ thầy cô trong lớp học nhộn nhịp ồn ào dễ nhận ra sự thiếu chú ý so với người phụ giáo kèm trẻ học riêng ở thư viện yên tĩnh. Dầu vậy, triệu chứng và sự hư hại thường được quan sát thấy trong mọi mặt của cuộc sống hằng ngày của trẻ, ít nhất tới một mức nào đó.
Vấn đề liên hệ:
Những triệu chứng tiên khởi của ADHD nơi trẻ con thường dẫn tới sự tương tác có tính thù nghịch với trẻ khác và chúng có thể không cho em chơi chung.
Đa số trẻ có ADHD có những khó khăn khác trong việc học với mức độ thay đổi, và có kết quả học tập tương đối kém so với khả năng trí tuệ của em.
Khoảng 25% người có ADHD có khiếm khuyết trí tuệ kể luôn cả việc chậm phát triển ngôn ngữ.
Trẻ có ADHD bị khó ngủ, dậy sớm và giấc ngủ thường không ngủ yên, giấc ngủ bị rối rắm do khó thở và ngáy.
Chứng ADHD ảnh hưởng trẻ tự kỷ ra sao ?
Có ít nhất 13% trẻ tự kỷ định bệnh có các triệu chứng ADHD. Triệu chứng thiếu sức chú ý và hiếu động nơi trẻ tự kỷ làm ngăn trở và xáo trộn việc học của chúng, việc thích nghi với học đường và đời sống gia đình. Chữa trị những triệu chứng này của trẻ có ADHD bằng phương pháp giáo dục, hành vi và thuốc cho ra kết quả tuy không phải luôn luôn thành công.
Chữa trị
Nhiều phương thức được áp dụng chung gồm:
Thuốc
Giáo dục đặc biệt
Sửa đổi hành vi, và
Chỉ dẫn cha mẹ và tập kỹ năng
nhiều phần cho đáp ứng tốt đẹp nhất. Thuốc là thành phần quan trọng nhất trong việc chữa trị, nhưng chữa trị dùng nhiều phương cách nhắm vào các vấn đề phức tạp của việc học, hành vi và giao tiếp của trẻ cải thiện được kết quả.
Lối dinh dưỡng giới hạn vào một số món xét ra hữu hiệu cho trẻ khi thực phẩm có tính gây ra tật được nhận diện, thí dụ như tartrazine, nhưng có lợi cho ít trẻ so với việc dùng thuốc.
Thuốc kích thích là hai thứ thông dụng nhất. Thử nghiệm về hiệu quả của thuốc kích thích cho thấy rõ ràng là có cải thiện tức khắc đối với việc thiếu chú ý, bốc đồng và hiếu động và việc giảm tính hung hăng. Ảnh hưởng lâu dài về việc học và thành đạt học vấn thì không rõ bằng và không có chứng cớ tốt đẹp lâu dài về hiệu quả của thuốc kích thích.
Nguồn:http://chamevoiconkhuyettat.org.au/index.html
Chứng Tự Kỷ Nặng - Nhẹ ?
Trong
nhiều tài liệu tiếng Việt High-functioning autism, cụm từ rất phổ biến
trong tiếng Anh, được dịch là Tự Kỷ chức năng-cao (cao-chức năng) thực
sự là thiếu ý và quá mù mờ, khó hiểu ! Cần làm rõ nghĩa qua cách tìm
hiểu vấn đề này.
"Tự kỷ khả năng cao (HFA / High-functioning autism ) là một thuật ngữ chính thức được dùng cho những người mắc chứng tự kỷ được coi là có 'khả năng cao hơn' những người khác mắc chứng tự kỷ, theo một hoặc nhiều số liệu [1] Không có sự đồng thuận với định nghĩa [1]. Tự kỷ khả năng cao không phải là một chẩn đoán được công nhận trong DSM-IV-TR hoặc các ICD-10.
Sự chồng chéo giữa HFA và hội chứng Asperger là điều tranh cãi. [1] Một số nhà nghiên cứu tranh luận đó là hai chẩn đoán riêng biệt, những người khác cho rằng họ không thể phân biệt. [1] "/#/
"Tự kỷ khả năng cao (HFA / High-functioning autism ) là một thuật ngữ chính thức được dùng cho những người mắc chứng tự kỷ được coi là có 'khả năng cao hơn' những người khác mắc chứng tự kỷ, theo một hoặc nhiều số liệu [1] Không có sự đồng thuận với định nghĩa [1]. Tự kỷ khả năng cao không phải là một chẩn đoán được công nhận trong DSM-IV-TR hoặc các ICD-10.
Sự chồng chéo giữa HFA và hội chứng Asperger là điều tranh cãi. [1] Một số nhà nghiên cứu tranh luận đó là hai chẩn đoán riêng biệt, những người khác cho rằng họ không thể phân biệt. [1] "/#/
[ ... ] Chứng bệnh - Tự kỷ thường được hiểu là một nhóm các rối loạn liên quan, người được chẩn đoán theo điều kiện những triệu chứng mức độ - nhiều hay ít. Nhóm xếp cuối cùng và nghiêm trọng trong phổ AUTISM là - tự kỷ khả năng thấp, có thể bị suy kém nặng nề (sâu sắc, rộng khắp) trong mọi lĩnh vực phát triển ở con người.
Tự Kỷ khả năng thấp.
Thông thường, trẻ em mắc chứng tự kỷ khả năng thấp (LFA)có ít hoặc không có ngôn ngữ, một số mức thách thức nghiêm trọng về mặt tinh thần, ít nhận thức so với bao người khác. Triệu chứng tự kỷ: cử chỉ mang tính rập khuôn và nhiều hành vi kỳ lạ khác thấy được rõ rệt hơn ở trẻ tk khả năng hoạt động thấp. Hành vi tự làm tổn thương phổ biến hơn nhiều, khả năng trong mọi hoạt động kém hơn so với các đồng bệnh của họ, nhóm có khả năng hoạt động cao (HFA).
Các nghiên cứu về tự kỷ có xu hướng tập trung vào nhóm ở đầu thang đánh giá - là tự kỷ "nhẹ hơn" hay gọi "HFA". Do đó, điều này đã dẫn đến bỏ mặc các khuyết tật học tập và những suy yếu ngôn ngữ của những người mắc nhiều hình thức nghiêm trọng của chứng tự kỷ.
Các nhà nghiên cứu từ Đại học Warwick đã kiểm chứng lý thuyết của họ rằng, đối với một đứa trẻ là " LFA ", chúng không có khả năng liên kết các từ như "muỗng- spoon"và "ghế- chair" với những gì chúng biết về cái muỗng- chiếc ghế , nhìn chung do giảm sút trí tuệ nghiêm trọng. Họ cũng không thể tiên liệu được khi trẻ mắc chứng tự kỷ là "HFA" cũng có một vấn đề trí tuệ tương tự, nhưng ở mức nhẹ hơn.
Các
kết quả nghiên cứu nên đề cập tới những nguyên nhân rối loạn ngôn ngữ
và học tập ở trẻ tự kỷ khả năng thấp. Vì đôi khi một đứa trẻ có vẻ là
nặng-LFA trong thời thơ ấu nhưng sau đó nó đạt được ngôn ngữ và nhận
thức về thế giới và chuẩn mực xã hội sẽ di chuyển vào nhóm tự kỷ với-
HFA . Vì vậy, muốn xác định IQ của một đứa trẻ dưới 3t là điều rất khó
khăn.
Tự kỷ nặng và suy giảm nhận thức.
Người được dán nhãn mắc chứng tự kỷ nặng với nhận thức suy giảm , có khó khăn hơn về các kỹ năng xã hội, và thành tích học tập. Họ thường có chút ít hiểu biết đến và (/ hoặc) phương tiện thích hợp để giao tiếp xã hội với những người khác. Không đáng ngạc nhiên, những cá nhân này có thể dễ biểu hiện những hành vi thách thức(*), chẳng hạn như tự gây thương tích và gây hấn. Điều này có thể, chỉ đơn giản là họ không học được cách để phản ứng hoặc đối phó theo cách tốt hơn cho nhu cầu với những căng thẳng hàng ngày, hoặc có thể họ không có phương tiện nào tốt hơn để giao tiếp với những người khác.
Trẻ em mắc chứng tự kỷ nặng cũng có thể có nhiều hoạt động liên quan đến cảm giác như vỗ bàn tay, quay vòng vòng, hoặc bật nẩy người. Những người có chứng tự kỷ nặng thường không biết nói chuyện, không hiểu ngôn ngữ để tiếp thu, họ không quan tâm cũng không muốn tham gia vào các cuộc trò chuyện trừ phi hoàn toàn cần thiết và vô cùng hạn chế do thiếu các lời nói; không đáp ứng tốt với điều trị hành vi, và không cải thiện bao nhiêu. Đối với trẻ em với LFA gặp khó khăn tinh thần là phổ biến, động kinh là phổ biến, và cũng có thể có các rối loạn khác. Họ không thể hiện được cảm xúc (ngoại trừ sự tức giận) và liệu họ có biết được những cảm xúc hay không do suy giảm khả năng để giao tiếp.
Khả năng thấp so với khả năng cao.
Tự kỷ gồm phạm vi rộng, từ những người gần như bị suy giảm tính xã hội và khuyết tật về tinh thần đến những người có triệu chứng nhẹ hoặc được cải thiện được đủ để xuất hiện như thường ("bình thường") chốn công cộng.
Trong phân loại và điều trị, các cá nhân mắc chứng tự kỷ thường được chia thành nhóm: những người có IQ <80 là "khả năng thấp" (LFA), những người có chỉ số IQ> 80 được gọi là "tự kỷ khả năng cao" (HFA). Hoạt động thấp và cao hơn áp dụng cho một cá nhân nhằm biết được họ có thể thực hiện các hoạt động trong cuộc sống hàng ngày, chứ không phải dùng để đề cập về trí tuệ.
Các khái niệm "thấp và cao" trong chứng tự kỷ đang gây tranh cãi và không phải tất cả những người sống với chứng tự kỷ chấp nhận những nhãn hiệu này. Số lượng người được chẩn đoán mắc chứng tự kỷ nặng không tăng mạnh như tự kỷ nhẹ, cho thấy giải thích rõ một phần của sự gia tăng, có thể cần được chẩn đoán tốt hơn.
Trẻ em bị chứng tự kỷ khả năng thấp có nhiều khó khăn về tinh thần, bị động kinh, và các kỹ năng ngôn ngữ rất hạn chế để tiếp thu / biểu cảm. Mặt khác, người với các nhãn khuyết tật nặng cũng có thể có tài năng đặc biệt. Trái lại, người có nhãn -khả năng cao cũng có thể tàn tật nghiêm trọng do triệu chứng tự kỷ lan tỏa ở họ. Và. những người được gán nhãn là hoạt động thấp cũng có thể ít bị ảnh hưởng bởi các đặc trưng liên quan đến chứng tự kỷ.
Người có thể được cho là đã "tự kỷ khả năng thấp" hoặc "tự kỷ khả năng cao", tùy mức độ nghiêm trọng của triệu chứng của họ/ kết quả của một bài kiểm tra chỉ số IQ. Mặc dù phân loại của các cá nhân theo điểm IQ đã chịu những lời chỉ trích/20 năm, các nhà giáo dục vẫn có xu hướng tiếp tục phân loại thành các nhóm sau đây:
1. Có thể giáo dục được - Educable (IQ 70 - 55)
2. Huấn luyện được- Trainable (chỉ số IQ 55 - 40)
3. Nặng (chỉ số IQ 40 - 25)
4. Quá nghiêm trọng- Profound ( IQ thấp dưới 25)
Phân loại theo thách thức tinh thần/ điểm IQ và có bốn cấp độ: nhẹ, trung bình, nặng, và rất nghiêm trọng. Trong giáo dục, dựa vào cách xếp loại này nhằm để phát triển chương trình giảng dạy, xếp vị trí lớp học, và định chuẩn giáo viên. Những thuật ngữ này chủ yếu là khuôn mẫu và không thuận lợi.
Đặc điểm thông thường Tự kỷ nặng -khả năng thấp.
• Xoắn các ngón tay • kém phối hợp các động tác đi bộ / bước đi - • suy giảm nặng nề trong phát triển ngôn ngữ / tiếp thu ý nghĩa và diễn đạt • Thiếu hoặc không thường xuyên bắt đầu mối quen • Thiếu cử chỉ thông thường không lời (ví dụ, chỉ tay, lắc đầu, gật đầu)• Không thể tự kiểm soát hành vi không phù hợp • Tránh hoặc sử dụng giao tiếp bằng mắt theo cách kỳ quặc • Thích ở một mình • Không có khả năng bắt chước (chuyển động cơ thể, ngữ điệu, vận động)• Kích thích cơ thể chuyển động nhịp nhàng như rocking, nhịp, vỗ tay, đi nhón chân, quay vòng• Trên hoặc dưới mức nhạy cảm với âm thanh, mùi, cảm ứng kích thích thị giác, và đau đớn • Có thể không được tìm được sự thoải mái về thể chất từ cha mẹ / người chăm sóc • Cảm xúc bộc lộ bất thường, ví dụ, cười khúc khích hoặc khóc không có lý do rõ ràng • bốc đồng • không mong muốn • Hành vi hung hăng (với người khác).• Hành vi tự gây thương tích.
Giáo dục cho người Tự kỷ khả năng thấp.
Do ngữ pháp hạn chế, bị kích thích và dễ bốc đồng thường được cho là điển hình của chứng tự kỷ khả năng thấp, theo hướng dẫn bằng trực quan xem như là cách ưu tiên. Khi thiết kế chương trình giáo dục cho học sinh tự kỷ có nhãn khuyết tật nghiêm trọng, các chuyên gia và các thành viên trong gia đình nên xem xét các chương trình cụ thể cho một học sinh được xác định rõ rệt/quá trình để giáo dục cá nhân (IEP- Individualized Education Program).
Không có IEP cho những người-LFA so với người - HFA. IEP chỉ cho mỗi cá nhân học sinh. Chương trình cá nhân phải thuyết minh cách tiếp cận để cung cấp cho học sinh theo cách dễ hiểu và chấp nhận được để giao tiếp, giảng dạy các hành vi phù hợp với bối cảnh xã hội, và cung cấp trải nghiệm đáp ứng các nhu cầu cảm giác bằng cách thúc đẩy làm quen với môi trường khó khăn(desensitization) hoặc làm giảm tình trạng quá tải cảm giác được thu xếp theo các tình huống cụ thể.
Với một đứa trẻ mắc tự kỷ nặng việc học tập sẽ khó khăn hơn, chương trình 1 năm học nên được dành để giảng dạy đứa trẻ tham gia vào các hoạt động mang lại lợi ích. Một chương trình về khả năng cho cuộc sống là các hoạt động khác nhau sẽ cần người để sống, làm việc, và tham gia trong cộng đồng của mình /.
Kỹ năng sống như cuốn sách kiểm tra cân bằng, tái tạo tại cộng đồng (YMCA) khu phố, ăn uống tại một nhà hàng, duy trì một công việc, và đi mua sắm là những mục tiêu quan trọng.
Phụ huynh của những trẻ được coi là tự kỷ khả năng thấp phải ủng hộ sự cần thiết cho các hoạt động sống như vậy trong IEP của đứa trẻ. Nhiều trẻ em bị chứng tự kỷ được gom lại trong các chương trình liên quan dựa trên mức độ hoạt động và các khuyết tật thay vì theo khả năng của chúng.
Không có nhãn thiết lập hoặc chương trình giảng dạy phù hợp cho tất cả học sinh mắc chứng tự kỷ; không một sự sắp xếp nào là chính xác. Những gì trẻ học ở trường nên thể hiện sự đa dạng theo sở thích.
Các vấn đề Hành vi & cảm xúc - Trẻ em với những khó khăn tâm thần có nhiều biểuhiện nhiều vấn đề về hành vi và cảm xúc hơn so với các bạn của chúng. Từ chối không ưng thuận thường là đưa đến cảm nhận của bạn bè về bản chất không thích hợp của hành vi rõ ràng hơn là khả năng học tập yếu kém.
Do đó, các giáo viên cần nhấn mạnh nỗ lực hội nhập và tập trung vào sự cần thiết để trẻ được hướng dẫn kỹ năng và thẩm quyền xã hội. Chiến lược hợp tác-học tập có thể rất hiệu quả.
Các khái niệm cụ thể - Học sinh khuyết tật tâm thần nhẹ làm mọi việc tốt hơn với khái niệm thể chất chứ không phải bằng tư duy, có khó khăn với trí nhớ ngắn hạn và tổ chức thông tin để sau này nhớ lại, và thấy khó khăn để đơn giản hóa một loạt các tình huống.
Thành quả học tập, tự kỷ khả năng thấp tụt hậu phía sau thành tích mong đợi so với độ tuổi. Thông thường, học sinh với những khó khăn về tâm thần bị kém hơn 3-4 năm so với bạn đồng lứa không có khuyết tật và có thể phải quản lý trông nom suốt ~thời kỳ học bậc tiểu học để hoàn thành giáo dục chính thức.
Lý thuyết "Locus of control" - là một khái niệm giữa tâm lý học và xã hội học, liên quan đến cá nhân lựa chọn tiếp cận trách nhiệm và kiểm soát các diễn biến trong cuộc sống của họ. Đi theo hai ý niệm phổ biến đặt sự kiểm soát bản thân hoặc do nội lực hoặc bởi sức mạnh bên ngoài. Quyết định này, thường không do nhận thức về ý thức mạnh mẽ có ảnh hưởng đến động lực và ý thức tự chỉ đạo và toàn vẹn tâm lý; mặt khác, nếu được xem như là một cái gì đó ngoài tầm kiểm soát của chính mình biện minh bởi các khái niệm bất lực, đổ lỗi, và thiếu hiệu lực tâm lý.
Đào
luyện cho trẻ tự kỷ biết tầm quan trọng của sự chú ý và hiểu cách để
chủ động chú ý theo dõi trong nỗ lực học tập. Khái niệm của sự chú ý có
thể được chia thành các khả năng tập trung (một thời gian vào nhiệm
vụ); tập trung (để hạn chế kích thích mất tập trung hay không lường
trước được), và sự chú ý chọn lọc (phân biệt theo các đặc tính kích
thích quan trọng).
Vấn đề thể chất - Thể chất, một số trẻ em khuyết tật tâm thần nhẹ thường có dưới mức trung bình về chiều cao, cân nặng, và sự trưởng thành xương. Nhiều người trong số những trẻ em này biểu lộ nhiều vấn đề - thể chất yếu kém.
Các kỹ năng hữu ích- Học sinh gặp những khó khăn nhẹ về tâm thần có thể đạt được mục tiêu học tập, mặc dù có thể mất nhiều thời gian hơn so với các học sinh khác. Trẻ em mắc chứng tự kỷ nặng có thể có được kỹ năng giao tiếp cơ bản, cả hai - nói và viết. Giáo viên cần nhấn mạnh thành tích hữu ích(kỹ năng thích ứng) để giúp học sinh trở thành người lớn độc lập về tài chính và xã hội. Thường xuyên thực hành và củng cố có thể giúp học sinh thu nhận được phản ứng xã hội thích hợp.
Quá trình can thiệp - với quá trình can thiệp có thể giúp trẻ giải quyết vấn đề, ghi nhớ, hoặc nhớ lại. Chiến lược hay quy trình này là: bằng lời nói.
Trẻ tự kỷ LFA - không kiểm soát được hành vi khi ở nơi công cộng. Chúng có thể gây bạo lực không có lý do rõ ràng, làm cho chúng ta luôn bận tâm, tấn công một ai đó và một vài phút sau đó lại trở nên thụ động. Những đứa trẻ này không có được các thông tin giao thiệp cần thiết để trò chuyện với người lạ, và các kỹ năng được dạy do trị liệu đạt kết quả rất hạn chế.
Hiện đã có nghiên cứu đáng ngạc nhiên điều tra nguyên nhân khó khăn ngôn ngữ và học tập ở tự kỷ khả năng thấp. Khoảng một nửa mất tiếng nói, và những người nói được thường chỉ lặp lại những gì họ đã nghe. Người ta ước tính rằng năm mươi phần trăm các cá nhân bị tự kỷ phát triển ngôn ngữ giao tiếp có mục đích.
Nguồn:http://www.tretuky.com/forum/yaf_postsm13882_Thoai-lui-thoi-diem-thoai-lui-chu-ky-thoai-lui-cua-tre-tu-ky-.aspx#post13882
Chuyện cái màn hình của iPhone
Charles Duhigg & Keith Bradsher/New York Times
Chuyển ngữ: Triệu Phong
Khi Tổng Thống Barack Obama cùng ăn tối với những nhân vật hàng đầu của Silicon Valley ở California hồi Tháng Hai, mỗi thực khách được yêu cầu nêu một câu hỏi với tổng thống. Nhưng khi Steven Jobs, tổng giám đốc điều hành công ty Apple, đang phát biểu thì tổng thống cắt ngang với một thắc mắc: “Việc sản xuất iPhone có mang lại gì cho nước Mỹ không?”
|
Khách xếp hàng bên ngoài tiệm Apple ở Germantown, Tennessee. Những sản phẩm nổi tiếng nhất của hãng này - iPhone, iPad - đều làm ở Trung Quốc, không làm ở Mỹ. (Hình: AP Photo/The Commercial Appeal, Kyle Kurlick) |
Obama hỏi: “Tại sao lại không đưa những việc ấy về làm trong nước?”
Một thực khách có tham dự buổi tiệc hôm ấy kể lại, Jobs trả lời một cách mơ hồ: “Những công việc đó chưa trở lại Hoa Kỳ được.”
Thắc mắc của tổng thống chạm đúng tim đen của Apple: Không những thuê mướn công nhân ở hải ngoại rẻ hơn ở Hoa Kỳ, giới điều hành Apple còn tin tưởng vào qui mô to lớn của các cơ xưởng ở ngoại quốc, công nhân của họ làm việc linh động, cần cù và có kỹ năng, qua mặt hẳn đối tác của họ ở tại Mỹ, khiến “Made in the USA” không còn là chọn lựa để kinh doanh của họ có thể tồn tại được.
Apple trở thành một trong những công ty nổi tiếng, được ca ngợi và cũng bị mô phỏng theo nhiều nhất trên thế giới, một phần nhờ tài điều khiển các hoạt động trên toàn cầu. Năm ngoái, theo The New York Times, Apple kiếm được $400,000 trên mỗi công nhân của họ, qua mặt cả Goldman Sachs, Exxon Mobil hay Google.
Duy có điều làm ông Obama, các kinh tế gia cũng như các nhà làm chính sách bực mình là, Apple cùng một số công ty kỹ thuật cao khác, gần như chẳng hề màng đến chuyện tạo việc làm tại Hoa Kỳ như những công ty lừng danh đã từng làm vào thời cực thịnh nhất của họ.
43,000 người ở Mỹ và 20,000 ở ngoại quốc hiện làm việc cho Apple. Con số này chỉ là một phần nhỏ so với hơn 400,000 công nhân General Motors từng mướn vào thập niên 1950, hay hàng trăm ngàn ở General Electric vào thập niên 1980. Thực ra ra còn có thêm 700,000 kỹ sư, và công nhân chế tạo cũng như lắp ráp, làm việc cho các nhà thầu làm ăn với Apple, trong việc sản xuất iPhone, iPad cùng các sản phẩm khác của Apple. Có điều trong số đó không có ai làm việc cho các công ty ở Mỹ, nhưng cho các công ty ở Á Châu, Âu Châu cùng những nơi khác, tại những nhà máy mà các nhà thiết kế điện tử cần đến để làm ra các sản phẩm của họ.
Jared Bernstein, cố vấn kinh tế Tòa Bạch Ốc nhận định: “Apple là một ví dụ cho thấy tại sao khó có thể tạo được việc làm hạng trung cấp ở Mỹ vào lúc này. Nếu đây là thời điểm đỉnh cao của tư bản chủ nghĩa thì quả là điều chúng ta nên quan ngại.”
Ra ngoại quốc làm ăn là chọn lựa duy nhất
Theo một lãnh đạo của Apple xin được giấu tên (vì chính sách kín miệng của Apple), ra ngoại quốc làm ăn vào lúc này chỉ là chọn lựa duy nhất. Một cựu giám đốc của Apple kể lại cho báo New York Times chuyện có lần vào phút chót trước khi xuất xưởng, công ty quyết định cho thay màn hình iPhone bằng một loạt mới thiết kế lại. Màn hình mới được chở đến nhà máy vào lúc trước nửa đêm. Một đốc công lập tức huy động 8,000 nhân công nội trú trong nhà máy chuẩn bị lên ca ngay. Họ được phát bánh mì và nước trà, rồi được hướng dẫn đến vị trí làm việc. Trong vòng nửa tiếng, họ bắt đầu ca làm việc kéo dài 12 tiếng và trong 96 giờ, nhà máy sản xuất được hơn 10,000 iPhone.
Người cựu giám đốc nói: “Tốc độ và sự linh động thật là không thể tưởng tượng nỗi. Không một cơ xưởng sản xuất nào ở Hoa Kỳ có thể sánh lại.”
Câu chuyện tương tự cũng có thể nghe được nơi hầu hết các công ty sản xuất đồ điện tử khác, và việc đưa công việc ra sản xuất ở ngoại quốc cũng trở nên quá phổ biến đối với hàng trăm ngành kỹ nghệ khác như kế toán, dịch vụ pháp lý, ngân hàng, chế tạo xe hơi và y dược.
Betsey Stevenson, cựu kinh tế trưởng tại Bộ Lao Ðộng cho đến Tháng Chín năm ngoái, nêu ý kiến với New York Times: “Có một thời nhiều công ty cảm thấy có bổn phận phải ủng hộ công nhân Hoa Kỳ, dù rằng đó không phải là một chọn lựa tốt nhất về mặt tài chính. Chuyện đó nay đã hết rồi. Lợi nhuận và hiệu năng kinh doanh đã thắng lướt lòng hào hiệp đó.” Các công ty và kinh tế gia đều đồng ý đó là một ý niệm ngây ngô.
Nhiều giám đốc công ty nói, mặc dù người Mỹ nằm trong số những công nhân có học thức nhất thế giới, nhưng đất nước này đã không còn đào tạo đủ người có kỹ năng ở hạng bậc trung mà các nhà máy cần đến.
Apple's CEOs: Giải quyết nạn thất nghiệp không phải là việc của Apple
Theo các công ty, để phát triển, họ phải dọn đến nơi nào mang lại được đủ lợi nhuận, để họ có thể cải tiến thêm cho sản phẩm của mình. Làm ngược lại, nhiều công việc ở Mỹ chỉ gặp rủi ro thêm vì bị mất dần theo thời gian. Chứng cớ thấy được nơi các công ty một thời là niềm hãnh diện quốc gia như GM và nhiều đại công ty khác, đã bị co cụm trước sự cạnh tranh của những công ty mới trỗi lên có sự hoạt động khá linh hoạt.
Theo nhiều giám đốc của Apple, thế giới ngày nay đang thay đổi nhiều. Họ cho biết, đánh giá một công ty qua số công nhân làm việc như trước đây là điều lầm lẫn và nhấn mạnh thêm rằng thực ra Apple giúp mướn người ở Mỹ làm việc nhiều hơn bất kỳ lúc nào trước đây. Họ nói sự thành công của Apple mang lại nguồn lợi cho nền kinh tế Hoa Kỳ, như giúp cho các công ty thầu làm sản phẩm của Apple được lớn mạnh thêm, tạo công việc làm ở nhiều công ty chuyên cung cấp dịch vụ điện thoại di động, ngành kinh doanh vận chuyển sản phẩm của Apple. Nhưng nói cho cùng, theo các tổng giám đốc của Apple, giải quyết nạn thất nghiệp không phải là việc của Apple.
Một tổng giám đốc của Apple nói: “Chúng tôi bán iPhone đến hơn một trăm quốc gia. Bổn phận của chúng tôi không phải là giải quyết vấn đề của nước Mỹ. Ðiều bắt buộc duy nhất đối với chúng tôi là làm sao làm ra sản phẩm càng tuyệt hảo càng tốt.”
Năm 2007, không hơn một tháng trước khi iPhone được bày bán trên thị trường, tổng giám đốc Jobs cho vời khoảng một chục nhân vật cao cấp dưới quyền vào văn phòng. Ông cho biết ông mang theo trong túi cái điện thoại di động đang thử nghiệm suốt nhiều tuần qua. Rồi ông giận dữ đưa chiếc iPhone lên, xoay nghiêng để mọi người có thể thấy được hằng chục vết trầy trên màn hình nhựa. Kế đó ông lôi chùm chìa khóa từ trong túi quần jean ra, và nói:
“Người ta mang theo điện thoại, để trong túi. Người ta mang theo chìa khóa và cũng để trong túi. Tôi không bán một sản phẩm có thể dễ bị trầy xước. Giải pháp duy nhất là phải có một màn hình bằng kiếng không thể trầy được. Tôi muốn có màn hình bằng kiếng và tôi muốn thấy iPhone phải hoàn chỉnh nội trong sáu tuần.”
Một giám đốc rời phòng họp và tức tốc bay qua Thẩm Quyến (Shenzhen), ở Trung Quốc. Nếu ông Jobs muốn hoàn hảo thì không nơi đâu để đi, ngoại trừ Trung Quốc.
Trong suốt nhiều năm, các hãng sản xuất điện thoại di động cố tránh không làm màn hình bằng kiếng vì đòi hỏi phải cắt và mài với độ chính xác cao, vốn là điều hết sức khó đạt được. Apple từng chọn Corning Inc., một công ty Mỹ để chế tạo những tấm kiếng chịu lực lớn. Nhưng trở ngại là làm sao từ đó có thể cắt ra thành hằng triệu màn hình nhỏ cho iPhone. Việc này đòi hỏi phải có một nhà máy để trống, chỉ dùng cho mỗi công việc cắt, và có sẵn hàng trăm mảnh kiếng dùng để thí nghiệm, cùng một đội quân gồm toàn kỹ sư có trình độ bậc trung. Tốn phí dĩ nhiên không phải nhỏ chỉ cho giai đoạn chuẩn bị mà thôi.
Thế rồi một cơ xưởng ở Trung Quốc đề nghị thầu làm việc này.
Khi một toán đại diện của Apple ghé qua, chủ nhân nhà máy đã cho nới rộng thêm xong một cánh của cơ xưởng. Người giám đốc nói, họ làm vậy phòng khi được Apple giao thầu, trong khi chính quyền Trung Quốc cũng đồng ý trợ cấp cho nhà máy. Họ có sẵn một nhà kho chứa đầy các mặt kiếng mẫu cho Apple thử nghiệm, các kỹ sư cũng túc trực sẵn, tất cả hoàn toàn miễn phí. Ngoài ra họ còn xây thêm một ký túc xá cho công nhân, nhờ vậy lực lượng lao động luôn luôn sẵn sàng 24 trên 24. Thế là nhà máy của Trung Quốc này trúng thầu.
Một giám đốc cao cấp của Apple nói: “Toàn bộ dây chuyền tiếp liệu bây giờ đều nằm ở Trung Quốc. Quí vị cần một ngàn miếng đệm cao su? Một nhà máy khác ở kế bên sẽ lo việc đó. Quí vị cần một triệu đinh ốc? Xưởng làm thứ đó chỉ cách một khu phố. Quí vị muốn thay đổi đinh ốc đó lại một chút đỉnh? Chỉ chờ ba tiếng thôi!”
Apple không thể đi đâu ngoài Trung Quốc
Cách nhà máy làm màn hình kiếng tám giờ lái xe là Foxconn City, tên gọi khu kỹ nghệ nơi iPhone được lắp ráp. Theo các chóp bu Apple, Foxconn City là chứng cớ cụ thể hơn cho thấy chỉ Trung Quốc mới cung cấp đủ nhân công làm việc, và sự cần cù của họ vượt hẳn công nhân người Mỹ.
Tại Foxconn City có 230,000 công nhân, phần nhiều làm 6 ngày mỗi tuần và thông thường là 12 tiếng mỗi ngày. Hơn một phần tư trong số đó ở lại trong ký túc xá của nhà máy và đa số chỉ lãnh $17 mỗi ngày. Khi một giám đốc Apple đến nơi vào lúc đổi ca, xe ông bị kẹt trong một biển người. Nhà máy phải mướn đến 300 bảo vệ để điều hòa lưu thông của dòng người đi bộ, để họ không bị đè bẹp nơi cổng vào. Nhà bếp chính của cơ xưởng phải nấu trung bình ba tấn thịt heo và 13 tấn gạo mỗi ngày cho công nhân. Trong khi đâu đâu cũng sạch sẽ không một vết dơ thì ở phòng giải khát, lại nồng nặc mùi khói thuốc.
Foxconn Technology có hằng chục cơ xưởng ở Á Châu, Ðông Âu, Mexico và Brazil. Họ lắp ráp cho 40% các đồ điện tử trên thế giới cho các khách hàng như Amazon, Dell, Hewlett-Packard, Motorola, Nintendo, Nokia, Samsung và Sony.
Jennifer Rigoni là người từng làm quản trị nhu cầu tiếp liệu toàn cầu cho Apple đến năm 2010. Bà nói: “Chỉ một đêm, họ có thể mướn vào 3,000 thợ. Ở Mỹ có hãng nào làm được như vậy không? Chưa kể thuyết phục được họ ở lại trong nhà máy.”
13 ngành học khó kiếm việc làm nhất nước Mỹ
Trang tin tức The Daily Beast
mới đây đã tổng hợp các số liệu lao động và việc làm để chọn ra 13
ngành học vô ích nhất nước Mỹ, bao gồm cả báo chí và triết học.
Bảng xếp hạng của The Daily Beast
dựa trên nghiên cứu mới từ Trường đại học Georgetown vốn sử dụng dữ
liệu trong hai năm qua để xác định triển vọng của vô số ngành học.
The Daily Beast
cũng sử dụng dữ liệu từ Cục Thống kê Lao động Mỹ để xác định tỉ lệ
thất nghiệp hiện tại và tương lai cùng thu nhập tiềm năng để đưa ra
bảng xếp hạng dựa vào các hạng mục dưới đây:
- Tỉ lệ thất nghiệp của sinh viên mới tốt nghiệp
- Tỉ lệ thất nghiệp của sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm
- Thu nhập của sinh viên mới tốt nghiệp
- Thu nhập của sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm
- Tăng trưởng việc làm dự kiến từ 2010 đến 2020
Các sinh viên Trường đại học Harvard - Ảnh: Reuters |
1. Mỹ thuật
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp thất nghiệp: 12,6%
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm thất nghiệp: 7,3%
Thu nhập của sinh viên mới tốt nghiệp: 30.000 USD/năm
Thu nhập của sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm: 45.000 USD/năm
Tăng trưởng việc làm dự kiến: 5%
Nghề nghiệp liên quan: Thủ công và mỹ thuật
2. Kịch nghệ
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp thất nghiệp: 7,8%
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm thất nghiệp: 8,8%
Thu nhập của sinh viên mới tốt nghiệp: 26.000 USD/năm
Thu nhập của sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm: 45.000 USD/năm
Tăng trưởng việc làm dự kiến: 4%
Nghề nghiệp liên quan: Diễn viên
3. Nhiếp ảnh, quay phim
Phóng viên ảnh của Reuters tác nghiệp trong thảm họa động đất sóng thần ở Nhật vào năm 2011 - Ảnh: Reuters |
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp thất nghiệp: 12,9%
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm thất nghiệp: 6,7%
Thu nhập của sinh viên mới tốt nghiệp: 30.000 USD/năm
Thu nhập của sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm: 50.000 USD/năm
Tăng trưởng việc làm dự kiến: 9%
Nghề nghiệp liên quan: Biên tập phim ảnh, chụp hình
4. Nghệ thuật quảng cáo và Thiết kế đồ họa
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp thất nghiệp: 11,8%
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm thất nghiệp: 7,5%
Thu nhập của sinh viên mới tốt nghiệp: 32.000 USD/năm
Thu nhập của sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm: 49.000 USD/năm
Tăng trưởng việc làm dự kiến: 13%
Nghề nghiệp liên quan: Thiết kế đồ họa
5. Kiến trúc
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp thất nghiệp: 13,9%
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm thất nghiệp: 9,2%
Thu nhập của sinh viên mới tốt nghiệp: 36.000 USD/năm
Thu nhập của sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm: 64.000 USD/năm
Tăng trưởng việc làm dự kiến: 24%
Nghề nghiệp liên quan: Kiến trúc sư
Một kiến trúc sư với các bản thiết kế - Ảnh: AFP |
6. Nghiên cứu triết học và tôn giáo
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp thất nghiệp: 10,8%
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm thất nghiệp: 6,8%
Thu nhập của sinh viên mới tốt nghiệp: 30.000 USD/năm
Thu nhập của sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm: 48.000 USD/năm
Tăng trưởng việc làm dự kiến: 17%
Nghề nghiệp liên quan: Giảng viên đại học hoặc cao học
7. Văn chương và Ngôn ngữ tiếng Anh
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp thất nghiệp: 9,2%
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm thất nghiệp: 6,2%
Thu nhập của sinh viên mới tốt nghiệp: 32.000 USD/năm
Thu nhập của sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm: 52.000 USD/năm
Tăng trưởng việc làm dự kiến: 6%
Nghề nghiệp liên quan: Nhà văn
8. Báo chí
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp thất nghiệp: 7,7%
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm thất nghiệp: 6%
Thu nhập của sinh viên mới tốt nghiệp: 32.000 USD/năm
Thu nhập của sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm: 58.000 USD/năm
Tăng trưởng việc làm dự kiến: -6%
Nghề nghiệp liên quan: Phóng viên, thông tín viên, chuyên gia bình luận tin tức
Phóng viên còn là một nghề nghiệp nguy hiểm. Nhà báo Marie Colvin đã thiệt mạng khi tác nghiệp tại Syria - Ảnh: AFP |
9. Nhân chủng học và Khảo cổ học
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp thất nghiệp: 10,5%
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm thất nghiệp: 6,2%
Thu nhập của sinh viên mới tốt nghiệp: 28.000 USD/năm
Thu nhập của sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm: 47.000 USD/năm
Tăng trưởng việc làm dự kiến: 21%
Nghề nghiệp liên quan: Nhà nhân chủng học và nhà khảo cổ học
10. Quản lý khách sạn
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp thất nghiệp: 9,1%
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm thất nghiệp: 5,7%
Thu nhập của sinh viên mới tốt nghiệp: 32.000 USD/năm
Thu nhập của sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm: 53.000 USD/năm
Tăng trưởng việc làm dự kiến: 8%
Nghề nghiệp liên quan: Quản lý khách sạn, nhà hàng
11. Âm nhạc
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp thất nghiệp: 9,2%
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm thất nghiệp: 4,5%
Thu nhập của sinh viên mới tốt nghiệp: 30.000 USD/năm
Thu nhập của sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm: 45.000 USD/năm
Tăng trưởng việc làm dự kiến: 10%
Nghề nghiệp liên quan: Ca sĩ và nhạc sĩ
Ca sĩ Whitney Houston - Ảnh: Reuters |
12. Lịch sử
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp thất nghiệp: 10,2%
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm thất nghiệp: 5,8%
Thu nhập của sinh viên mới tốt nghiệp: 32.000 USD/năm
Thu nhập của sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm: 54.000 USD/năm
Tăng trưởng việc làm dự kiến: 18%
Nghề nghiệp liên quan: Sử gia
13. Khoa học chính trị và Quản lý hành chính công
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp thất nghiệp: 9,1%
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm thất nghiệp: 6%
Thu nhập của sinh viên mới tốt nghiệp: 35.000 USD/năm
Thu nhập của sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm: 65.000 USD/năm
Tăng trưởng việc làm dự kiến: 8%
Nghề nghiệp liên quan: Nhà khoa học chính trị
Rối loạn phát triển
Rối loạn phát triển ở trẻ em thường được chẩn đoán bằng cách quan sát hành vi, nhưng Aditi Shankardass đã nhận ra rằng chúng ta nên nhìn trực tiếp vào não bộ của những trẻ em này. Cô giải thích về việc làm thế nào mà thiết bị EEG ở phòng thí nghiệm của cô phát hiện được những chẩn đoán sai lầm và thay đổi cuộc sống của những trẻ em mắc bệnh.
Cho vay vàng mua đất: Hàng trăm ngàn lượng khó thu hồi
Cho vay vàng để đầu tư BĐS, đến khi BĐS xuống giá, các ngân hàng ôm đống nợ khó đòi hàng trăm ngàn lượng.
Thông tư 12 nhằm hỗ trợ thanh khoản cho một số ngân
hàng khó khăn, tạo thăng bằng với số vàng cho vay chưa thu hồi được nợ
và vàng tồn quỹ. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) gia hạn cho các ngân
hàng tiếp tục được phát hành chứng chỉ ngắn hạn bằng vàng tới trước
ngày 25/11/2012.
Theo các chuyên gia, quyết định này nhằm hỗ trợ thanh
khoản cho một số ngân hàng khó khăn, thời gian qua đã mang vàng cầm cố
để vay vốn tiền đồng và ngoại tệ của ngân hàng bạn.
Lãnh đạo một ngân hàng lớn ở TPHCM - đơn vị có số dư
huy động vàng lên đến 1,3 triệu lượng, tương đương với số vàng huy động
của 11 ngân hàng trên địa bàn thành phố - cho biết, nguyên nhân một ngân
hàng có số vốn vàng huy động bằng 50% số vàng huy động của các ngân
hàng trên địa bàn thành phố do vừa qua các ngân hàng nhỏ mang vàng huy
động đến ngân hàng lớn này cầm cố, thế chấp vay tiền đồng ngoại tệ hỗ
trợ thanh khoản. Từ đó, đẩy số vàng nắm giữ của ngân hàng này lên cao.
Trong 12 ngân hàng có dư nợ vàng ở TPHCM số vàng tồn quỹ lớn nhất phải kể đến là ACB, DongA Bank... tổng số vốn lên đến gần trăm tỷ đồng.
Ngoài việc huy động vàng làm tài sản đảm bảo vay vốn
bằng tiền lẫn nhau trên thị trường liên ngân hàng, dư nợ vàng trong các
ngân hàng hơn một năm qua chưa giảm nhiều. Việc Thông tư 12 cho phép
ngân hàng được tiếp tục phát hành chứng chỉ vàng ngắn hạn (có trả lãi
suất như tiết kiệm) đến 25/11/2012 sẽ tạo thăng bằng với số vàng cho vay
chưa thu hồi được nợ và vàng tồn quỹ.
Tại TPHCM - thị trường vàng lớn nhất nước - tổng dư nợ
cho vay vàng hiện còn hơn 600.000 lượng chưa thể thu hồi. Trong đó, dư
nợ cho vay vốn bằng vàng để đầu tư và kinh doanh bất động sản chiếm tỷ
trọng cao của các ngân hàng, kế đến là dư nợ cho vay vốn bằng vàng để
sản xuất kinh doanh, cho vay chế tác nữ trang...
Trong điều kiện kinh tế khó khăn, bên vay chưa thể trả
được những khoản nợ vay vốn bằng vàng từ những năm trước đây nên tỷ
trọng nợ khó đòi đang đẩy các ngân hàng vào chỗ khó tất toán dư nợ vàng.
Cụ thể, tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay vốn bằng vàng của từng ngân hàng tính đến hết tháng 2/2012 lần lượt: NamABank 18,21%, VietABank 11,62%, SouthernBank 5,4%, OCB 4,97%, Eximbank 4,13%, SCB 3,52%, ACB là 0,98%, DongABank 0,03%.
Bên cạnh đó, quy định cấm ngân hàng huy động vàng trong
dân dùng để cầm cố thế chấp, ký quỹ đảm bảm cho việc vay nợ của ngân
hàng trên thị trường liên ngân hàng tại Thông tư 12 cũng sẽ góp phần
chấm dứt dây dưa dư nợ vàng trong các ngân hàng, lập lại trật tự trên
thị trường vay mượn vốn của các ngân hàng khi một số ngân hàng thời gian
qua đã thao túng kiếm lời trong lúc ngân hàng bạn khó khăn.
Theo Thời báo Ngân hàng
Hãy cùng khám phá thuyết “hai mặt” của vật chất nhé.
Đó là những phát minh vô cùng quan trọng đối với
nhân loại được nghiên cứu để phục vụ cho sự sống và phát triển của con
người. Thế nhưng, “vô tình” hoặc “cố ý” những phát minh ấy đã gây ra
những thảm họa khủng khiếp đến với môi trường sống, và thậm chí cướp đi
biết bao sinh mạng quý giá.
Zyklon B
Fritz Haber là một nhà khoa học người Do Thái, đã
được giải Nobel khoa học với việc phát minh ra phân bón nitơ rẻ tiền,
nhằm giúp phát triển ngành nông nghiệp. Thế nhưng Zyklon B đã trở thành
một nguyên liệu quan trọng để người Đức chế tạo vũ khí hóa học trong Thế
chiến thứ I. Vì thế, Zyklon B phải chịu trách nhiệm gián tiếp trước cái
chết ước tính khoảng 1,2 triệu người.
Chất độc màu da cam
Nhà khoa học Arthur Galston đã nghiên cứu phát
triển chất hóa học có tác dụng làm tăng tốc độ tăng trưởng của đậu tương
và cho phép chúng có thể trông theo vụ mùa ngắn hạn. Thật không may,
nếu chất hóa học này sử dụng với nồng độ cao sẽ trở thành một thoại
thuốc diệt cỏ mạnh, và có ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của con
người nhất là rơi vào tay những kẻ hiếu chiến khát máu.
Chính phủ Hoa Kỳ đã cung cấp 77 triệu lít chất
độc da cam và rải chúng vào đất nước Việt Nam, gây ra 400 nghìn ca tử
vong và tật nguyền, kèm theo đó là di chứng khiến hơn 500 nghìn đứa trẻ
bị dị tật bẩm sinh. Chúng ta nên căm giận Hoa Kỳ hay Arthur Galston?
Súng đa nòng Gatling
Richard Jordan Gatling đã phát minh ra súng
Gatling sau khi ông nhận thấy số người chết trong cuộc nội chiến tại Hoa
Kỳ là vì bệnh tật chứ không phải vì tiếng súng. Năm 1877, ông từng viết
“Một ý nghĩ xuất hiện trong đầu tôi
rằng nếu tôi có thể tạo ra một bộ máy – tức là một khẩu súng – có tốc độ
của lửa, cho phép một người lính có thể thực hiện trăm nhiệm vụ như
một, thì sẽ chẳng cần đến một lực lượng quân đội hùng hậu, và do đó sẽ
giảm được rất nhiều số người phải nhập quân ngũ rồi chết vì bệnh tật.”
Liệu đó có phải là một ý tưởng “ngây thơ” không? Bởi sau khi súng
Gatling ra đời, thực dân châu Âu đã sử dụng thứ vũ khí siêu đẳng này một
cách tàn bạo đối với các dân tộc bản địa.
Thuốc nổ TNT
Joseph Wilbrand là một nhà hóa học người Đức, là
tác giả của Trinitrôtôluen – TNT – nổi tiếng vào năm 1863. Ban đầu,
Trinitrôtôluen được phát minh với mục đích tạo ra một loại thuốc nhuộm
vàng. Trớ trêu thay đến năm 1902, trước sức mạnh tàn phá khủng khiếp
trong chiến tranh thế giới thứ I và II, đã khẳng định tên tuổi của TNT
với vai trò là một loại vũ khí – thuốc nổ - tuyệt vời! Cho đến nay,
người ta vẫn biết đến TNT là thuốc nổ nhiều hơn là thuốc nhuộm.
Xăng pha chì
Thomas Midgley đã khám phá ra CFC Freon là một
chất làm lạnh an toàn, thay thế cho các chất làm lạnh có độc tính cao
phổ biến khác như ammonia. Thế nhưng, phát minh này lại gây tổn hại
nghiêm trọng đến tầng Ozon. Một “thành tựu” nổi tiếng khác của ông là
việc thêm chì vào xăng để chống kích nổ, thậm chí gây tử vong do ngộ độc
chì. Chính vì vậy, chẳng ai ngạc nhiên khi Midgley được ví như một con
người đã có tác động xấu nhiều đến bầu khí quyển hơn bất kỳ một nhân
vật nào khác trong lịch sử của Trái đất.
Nhà khoa học chết vì phát minh của chính mình
Có rất nhiều điều mà chúng ta chưa biết.
1.Henry Winstanley
Henry Winstaley là một kiến trúc sư, kỹ sư về hải đăng nổi tiếng ở Anh quốc. Ông đã thiết kế ra ngọn đèn biển Eddystone. Winstanley muốn thử nghiệm sức chịu đựng của công trình nên đã ở lại ngọn hải đăng trong khi bão tố nổi lên. Trong lần thử nghiệm, ngọn hải đăng đã sụp đổ giết chết Winstanley và 5 người khác.
--------------------------------------o0o---------------------------------------------
2.Alexander Bogdanov
Alexander Bogdanov là bác sĩ, triết gia, nhà kinh tế, nhà tiểu thuyết khoa học và là nhà cách mạng lỗi lạc của Nga. Một ý tưởng trong các thí nghiệm khoa học của ông là khả năng tái tạo cơ thể thông qua cơ chế truyền máu. Ông đã từng thực hiện việc truyền máu cho rất nhiều bệnh nhân nổi tiếng trong đó có cả chị gái của Lenin. Để thực hiện ý tưởng của mình, Bogdanov quyết định tự truyền vào cơ thể mình máu của một bệnh nhân mắc bệnh sốt rét và bệnh lao. Sau đó không lâu, ông đã chết vì bị nhiễm loại virus này.
--------------------------------------o0o---------------------------------------------
3.Cowper Phipps Coles
Cowper Phipps Coles là một sĩ quan Hải quân hoàng gia Anh xuất sắc. Trong thời gian truy quét bọn cướp biển, ông chế tạo ra tháp pháo cho tàu chiến. Phát mình của ông cũng được hải quân của nhiều nước khác sử dụng. Sau cuộc chiến, ông có ý định xây dựng “boong tàu bão tố” nhằm giúp tăng trọng lực của trung tâm con tàu. Tuy nhiên, ngày 6/9/1870, khi thử nghiệm chế tạo mới, con tàu HMS Captain bị lật khiến Coles và ít nhất 500 thủy thủ khác thiệt mạng.
--------------------------------------o0o---------------------------------------------
4.Karel Soucek
Karel Soucek là một diễn viên đóng thế người Canada. Vào năm 1985, anh thuyết phục công ty tài trợ tổ chức buổi biểu diễn ở Houston Astrodome, Texas. Từ một thác nước cao 55m, Soucek nhảy xuống phía dưới với capxun, một loại thiết bị bảo vệ bao quanh cơ thể. Cuộc biểu diễn gặp sự cố, Soucek ngã đập xuống bờ vực thay vì ngã xuống nước. Capxun vỡ vụn, Karel bị chấn thương trầm trọng. Anh mất ngay ngày hôm sau. Chiếc capxun của Soucek hiện được trưng bày tại bảo tàng quốc gia New York.
--------------------------------------o0o---------------------------------------------
5.Franz Reichelt
Franz Reichelt là thợ may người Áo rất nổi tiếng trong việc thiết kế các áo choàng độc đáo hay những vật mang chất liệu bằng dù mà anh cho rằng có thể bay cùng với nó. Anh đã ứng dụng thử nghiệm của mình bằng cách thực hiện cú nhảy trực tiếp từ tầng trên cùng tháp Eiffel trước sự chứng kiến của nhiều khán giả và nhóm quay phim. Điều đáng tiếc là bộ quần áo đặc biệt không giúp Reichelt thoát khỏi chấn thương, anh chết ngay sau đó do vết thương quá nặng.
(Nguồn: Sưu tầm )
6.Otto Lilienthal
Otto Lilienthal là nhà tiên phong của lĩnh vực hàng không dân dụng và được biết đến như “ông vua bay lượn”. Ông là người đầu tiên thành công khi tái diễn lại những chuyến bay lượn trên không trung. Các tờ báo và tạp chí của nhiều quốc gia cho xuất bản những bức ảnh của Lilienthal bay lượn ca ngợi những ý tưởng về khả năng chuyển động của máy móc trên không trung trở thành sự thật sau nhiều thế kỷ lãng quên. Trong chuyến bay ngày 9/8/1896, Lilienthal đã ngã từ độ cao 17m và bị gãy xương sống và qua đời. Lời cuối cùng anh để lại là “Cần phải có những sự hy sinh nhỏ bé”
-------------------------------------------o0o-----------------------------------------------------
7.William Bullock
William Bullock là một nhà khoa học người Mỹ đã phát minh ra máy in quay vào năm 1863. Chính điều này đã tạo ra cuộc cách mạng trong ngành công nghiệp in ấn có tốc độ nhanh và hiệu quả hơn. Thế nhưng, Bullock đã chết trong khi đang có gắng sửa chữa độ nén của máy in. Bàn chân của anh bị đè dưới máy trong khi anh đang gắng sức đẩy ròng rọc vào đúng vị trí. Sau đó, vết thương bị bị hoại thư, Bullock đã chết trong khi đang phẫu thuật cắt bỏ bàn chân.
-------------------------------------------o0o-----------------------------------------------------
8.J. G. Parry-Thomas
John Godfrey Parry-Thomas vừa là tay đua môtô vừa là một kỹ sư xứ Wales. Thomas luôn luôn ao ước phá vỡ kỷ lục về tốc độ lái xe đường bộ của Malcolm Campbell và tự thiết kế ra một chiếc ôtô để thực hiện giấc mơ đó. Anh sáng chế ra chiếc ôtô mang tên Babs với rất nhiều tính năng khác biệt như xích xe để hở khi kết nối bánh xe với các động cơ. Vào ngày 27/4/1926, Parry-Thomas đã phá vỡ được kỷ lục khi đạt tốc độ 273 km một giờ. Tốc độ này xô đổ kỷ lục được một năm trước của Malcolm Campbell. Thế nhưng, trong một lần đua sau đó, Thomas đã bị một dây xích của xe văng ra đập thẳng vào cổ và gần như cứa đứt đầu khiến anh chết tại chỗ.
-------------------------------------------o0o-----------------------------------------------------
9.Thomas Midgley Jr
Thomas Midgley là nhà hoá học người Mỹ đã sáng tạo ra xăng pha chì. Môi trường làm việc khiến ông bị nhiễm độc chì và buộc phải nằm một chỗ. Không đầu hàng số phận, Midgley phát minh ra một hệ thống ròng rọc, dây cáp nhằm giúp ông đứng dậy khỏi giường. Thế nhưng, chính hệ thống đó trực tiếp gây ra cái chết của Midgley. Ông bị quấn vào ròng rọc và chết vào năm 55 tuổi
-------------------------------------------o0o-----------------------------------------------------
10.Marie Curie
Marie Curie là nhà vật lý - hoá học người Balan. Bà nổi tiếng với những phát hiện nguyên tố phóng xạ radi và poloni. Bà đã tiến hành thí nghiệm trong ống chứa các ion phóng xạ và bảo quản chúng trong ngăn kéo bàn, ánh sáng xanh rất đẹp tư các chất đó phát ra trong bóng tối. Thế nhưng, những bức xạ này lại có tác động nghiêm trọng tới sức khỏe của người tìm ra chúng. Không có những thiết bị bảo hộ cần thiết, Curie mất vào ngày 4/7/1934 do bệnh thiếu máu.
(Nguồn: Sưu tầm )
Bám trụ Thủ đô, cử nhân nhập viện tâm thần
Cầm trên tay tấm bằng
đại học, thậm chí là tấm bằng loại ưu, nhiều bạn trẻ vẫn không thể xin
được việc... sau một thời gian ngậm ngùi làm xe ôm, bồi bàn, trông xe...
rất nhiều người trong số đó đã phải nhập viện tâm thần vì stress quá
nặng.
Nhiều bạn trẻ bị trầm cảm vì không tìm được công việc phù hợp.
Ngày làm xe ôm, tối làm bồi bàn
Ngày tốt nghiệp đại học Kinh tế Quốc dân với tấm bằng khá trên tay, giống như bao nhiêu những sinh viên khác, Hùng cũng hớn hở mang hồ sơ đi rải khắp các công ty, doanh nghiệp rồi mơ đến cảnh tượng được bước chân vào một công ty lớn để làm việc và cống hiến.
Ngày tốt nghiệp đại học Kinh tế Quốc dân với tấm bằng khá trên tay, giống như bao nhiêu những sinh viên khác, Hùng cũng hớn hở mang hồ sơ đi rải khắp các công ty, doanh nghiệp rồi mơ đến cảnh tượng được bước chân vào một công ty lớn để làm việc và cống hiến.
Nhưng một tháng, 2 tháng, rồi 1 năm trôi
qua, chưa kịp đem tâm huyết và những kiến thức đã học được trong nhà
trường để áp dụng vào công việc thì Hùng đã phải vào viện tâm thần trong
trạng thái khủng hoảng tinh thần, trầm cảm nặng...
Tại bệnh viện tâm thần, hồi tưởng lại quãng thời gian đã qua, Hùng chua chát: “Hồi đó, cũng có mấy chỗ gọi em đến phỏng vấn, nhưng rồi họ lại từ chối thẳng thừng vì ở đâu cũng yêu cầu phải có kinh nghiệm làm việc. Mà, 4 năm học đại học, suốt ngày chỉ biết mài đũng quần hết giảng đường lại đến thư viện để kiếm được tấm bằng loại ưu thì lấy đâu ra thứ xa xỉ ấy".
Tại bệnh viện tâm thần, hồi tưởng lại quãng thời gian đã qua, Hùng chua chát: “Hồi đó, cũng có mấy chỗ gọi em đến phỏng vấn, nhưng rồi họ lại từ chối thẳng thừng vì ở đâu cũng yêu cầu phải có kinh nghiệm làm việc. Mà, 4 năm học đại học, suốt ngày chỉ biết mài đũng quần hết giảng đường lại đến thư viện để kiếm được tấm bằng loại ưu thì lấy đâu ra thứ xa xỉ ấy".
63% sinh viên tốt nghiệp không có việc làm
Theo điều tra của Bộ GD-ĐT
công bố năm 2011, cả nước có tới 63% sinh viên tốt nghiệp ĐH-CĐ ra
trường không có việc làm, 37% có việc làm nhưng nhiều SV phải làm trái
nghề hoặc phải qua đào tạo lại.
Đáng lo ngại hơn, theo thống
kê của Cục việc làm (Bộ LĐ-TB-XH), sáu tháng đầu năm 2011 tình trạng
lao động mất việc làm tăng cao hơn khá nhiều so với cùng kỳ năm 2010.
|
Không kiếm được việc theo đúng chuyên
nghành đào tạo, trong khi viện trợ từ phía gia đình đã bị cắt từ lâu. Em
đành ngậm ngùi mang chiếc xe máy mới mua ra đầu ngõ làm xe ôm, kiếm
chút tiền chi tiêu. Rồi, có đứa bạn giới thiệu, em xin được chân bồi bàn
trong một quán rượu trên phố Tràng Tiền, với mức lương 1 triệu 8".
“Cứ tưởng, đã làm đến cái nghề chả phải dính líu gì đến bằng cấp, kinh nghiệm đó rồi thì sẽ được yên phận để tiếp tục duy trì cuộc sống và chờ đợi cơ hội việc làm theo đúng chuyên ngành của mình. Không ngờ, cũng chẳng được yên thân.
Đi làm xe ôm thì không ít lần bị khách quỵt tiền, rồi còn bị mấy ông “đồng nghiệp” trong khu dọa “đánh cho què chân” vì xâm phạm vào đất làm ăn của họ. Đến mức sợ quá, em không còn dám đi làm xe ôm nữa.
Còn, công việc trong quán rượu, lúc đầu, cứ tưởng đơn giản nhưng cũng không hề đơn giản chút nào, nhiều khi không cẩn thận chỉ cần lỡ tay làm rơi một ly rượu, là tiền lương cả tháng cũng chả đủ để bù”.
Vào viện tâm thần vì stress quá nặng
Hơn một năm bươn trải với rất nhiều các công việc tạm bợ khác nhau. Nhưng thu nhập cũng chẳng đủ để Hùng duy trì cuộc sống đắt đỏ nơi Thủ đô. Trong khi đó, lại thêm áp lực về việc kiếm tiền để nuôi đứa em vừa vào đại học càng khiến Hùng bị treess nặng nề.
“Cứ tưởng, đã làm đến cái nghề chả phải dính líu gì đến bằng cấp, kinh nghiệm đó rồi thì sẽ được yên phận để tiếp tục duy trì cuộc sống và chờ đợi cơ hội việc làm theo đúng chuyên ngành của mình. Không ngờ, cũng chẳng được yên thân.
Đi làm xe ôm thì không ít lần bị khách quỵt tiền, rồi còn bị mấy ông “đồng nghiệp” trong khu dọa “đánh cho què chân” vì xâm phạm vào đất làm ăn của họ. Đến mức sợ quá, em không còn dám đi làm xe ôm nữa.
Còn, công việc trong quán rượu, lúc đầu, cứ tưởng đơn giản nhưng cũng không hề đơn giản chút nào, nhiều khi không cẩn thận chỉ cần lỡ tay làm rơi một ly rượu, là tiền lương cả tháng cũng chả đủ để bù”.
Vào viện tâm thần vì stress quá nặng
Hơn một năm bươn trải với rất nhiều các công việc tạm bợ khác nhau. Nhưng thu nhập cũng chẳng đủ để Hùng duy trì cuộc sống đắt đỏ nơi Thủ đô. Trong khi đó, lại thêm áp lực về việc kiếm tiền để nuôi đứa em vừa vào đại học càng khiến Hùng bị treess nặng nề.
Từ một người hay nói, dễ gần, dần dần
Hùng trở nên ít giao tiếp và xa lánh với mọi người xung quanh. Theo lời
giải thích của Hùng thì lý do là vì: “Lúc nào em cũng nghĩ mình không
bằng bạn bằng bè, trong khi mọi người ra trường, kiếm việc làm ổn định,
thậm chí có người còn có thu nhập cao, còn mình suốt 1 năm trời cứ vất
va vất vưởng”.
Hùng kể, đã có không dưới một lần, Hùng định tìm đến cái chết để kết thúc cuộc sống vô nghĩa của mình nhưng không thành. Đến khi gia đình biết chuyện, thì mới đưa Hùng vào bệnh viện tâm thần để khám và điều trị.
Sau gần 4 tháng điều trị tại bệnh viện tâm thần, được học thiền, được nói chuyện chia sẻ, được nghe nhạc trị liệu… những nụ cười trên gương mặt của Hùng mới xuất hiện trở lại. Hùng bảo, ra viện lần này, em sẽ lại về quê để xin việc, chứ không khổ sở bám lấy đất Thủ đô này nữa.
Hùng kể, đã có không dưới một lần, Hùng định tìm đến cái chết để kết thúc cuộc sống vô nghĩa của mình nhưng không thành. Đến khi gia đình biết chuyện, thì mới đưa Hùng vào bệnh viện tâm thần để khám và điều trị.
Sau gần 4 tháng điều trị tại bệnh viện tâm thần, được học thiền, được nói chuyện chia sẻ, được nghe nhạc trị liệu… những nụ cười trên gương mặt của Hùng mới xuất hiện trở lại. Hùng bảo, ra viện lần này, em sẽ lại về quê để xin việc, chứ không khổ sở bám lấy đất Thủ đô này nữa.
Giới trẻ bị tâm thần là do thiếu kỹ năng
Theo phân tích của chuyên
gia tâm lý Vũ Thu Hà, Trung tâm ứng dụng tâm lý Hoa Mặt Trời, các bạn
trẻ là sinh viên mới ra trường là những người có năng lượng và nhu cầu
thể hiện bản thân rất lớn. Tuy nhiên, không phải lúc nào họ cũng tìm
được môi trường thích hợp để thể hiện và phát huy khả năng của mình. Do
vậy, trong thời gian chờ đợi công việc, họ rất dễ có tâm lý chán nản và
thất vọng ...
Bên cạnh đó, việc thiếu những kỹ năng xã hội như kỹ năng giải quyết vấn đề, sự kiên định hoặc tìm kiếm sự hỗ trợ cũng khiến cho các bạn trẻ không có nhiều tư thế chủ động trong việc tìm kiếm công việc, kiên trì theo đuổi sự nghiệp. Đấy là nguyên nhân vì sao nhiều sinh viên sau khi ra trường không kiếm được việc làm, và mắc các chứng bệnh lo âu hoặc căng thẳng. |
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)