Chuyện cái màn hình của iPhone



                          
Charles Duhigg & Keith Bradsher/New York Times
Chuyển ngữ: Triệu Phong

Khi Tổng Thống Barack Obama cùng ăn tối với những nhân vật hàng đầu của Silicon Valley ở California hồi Tháng Hai, mỗi thực khách được yêu cầu nêu một câu hỏi với tổng thống. Nhưng khi Steven Jobs, tổng giám đốc điều hành công ty Apple, đang phát biểu thì tổng thống cắt ngang với một thắc mắc: “Việc sản xuất iPhone có mang lại gì cho nước Mỹ không?”

Khách xếp hàng bên ngoài tiệm Apple ở Germantown, Tennessee. Những sản phẩm nổi tiếng nhất của hãng này - iPhone, iPad - đều làm ở Trung Quốc, không làm ở Mỹ. (Hình: AP Photo/The Commercial Appeal, Kyle Kurlick)
Không lâu trước đây, Apple khoe rằng tất cả sản phẩm của họ đều là “Made in America.” Tuy nhiên, ngày nay ít thấy được cái nào chế tạo tại Hoa Kỳ. Hầu như tất cả 70 triệu iPhone, 30 triệu iPad và 59 triệu các sản phẩm khác của Apple bán ra hồi năm ngoái đều được sản xuất ở ngoại quốc.
Obama hỏi: “Tại sao lại không đưa những việc ấy về làm trong nước?”
Một thực khách có tham dự buổi tiệc hôm ấy kể lại, Jobs trả lời một cách mơ hồ: “Những công việc đó chưa trở lại Hoa Kỳ được.”
Thắc mắc của tổng thống chạm đúng tim đen của Apple: Không những thuê mướn công nhân ở hải ngoại rẻ hơn ở Hoa Kỳ, giới điều hành Apple còn tin tưởng vào qui mô to lớn của các cơ xưởng ở ngoại quốc, công nhân của họ làm việc linh động, cần cù và có kỹ năng, qua mặt hẳn đối tác của họ ở tại Mỹ, khiến “Made in the USA” không còn là chọn lựa để kinh doanh của họ có thể tồn tại được.
Apple trở thành một trong những công ty nổi tiếng, được ca ngợi và cũng bị mô phỏng theo nhiều nhất trên thế giới, một phần nhờ tài điều khiển các hoạt động trên toàn cầu. Năm ngoái, theo The New York Times, Apple kiếm được $400,000 trên mỗi công nhân của họ, qua mặt cả Goldman Sachs, Exxon Mobil hay Google.
Duy có điều làm ông Obama, các kinh tế gia cũng như các nhà làm chính sách bực mình là, Apple cùng một số công ty kỹ thuật cao khác, gần như chẳng hề màng đến chuyện tạo việc làm tại Hoa Kỳ như những công ty lừng danh đã từng làm vào thời cực thịnh nhất của họ.
43,000 người ở Mỹ và 20,000 ở ngoại quốc hiện làm việc cho Apple. Con số này chỉ là một phần nhỏ so với hơn 400,000 công nhân General Motors từng mướn vào thập niên 1950, hay hàng trăm ngàn ở General Electric vào thập niên 1980. Thực ra ra còn có thêm 700,000 kỹ sư, và công nhân chế tạo cũng như lắp ráp, làm việc cho các nhà thầu làm ăn với Apple, trong việc sản xuất iPhone, iPad cùng các sản phẩm khác của Apple. Có điều trong số đó không có ai làm việc cho các công ty ở Mỹ, nhưng cho các công ty ở Á Châu, Âu Châu cùng những nơi khác, tại những nhà máy mà các nhà thiết kế điện tử cần đến để làm ra các sản phẩm của họ.
Jared Bernstein, cố vấn kinh tế Tòa Bạch Ốc nhận định: “Apple là một ví dụ cho thấy tại sao khó có thể tạo được việc làm hạng trung cấp ở Mỹ vào lúc này. Nếu đây là thời điểm đỉnh cao của tư bản chủ nghĩa thì quả là điều chúng ta nên quan ngại.”

Ra ngoại quốc làm ăn là chọn lựa duy nhất

Theo một lãnh đạo của Apple xin được giấu tên (vì chính sách kín miệng của Apple), ra ngoại quốc làm ăn vào lúc này chỉ là chọn lựa duy nhất. Một cựu giám đốc của Apple kể lại cho báo New York Times chuyện có lần vào phút chót trước khi xuất xưởng, công ty quyết định cho thay màn hình iPhone bằng một loạt mới thiết kế lại. Màn hình mới được chở đến nhà máy vào lúc trước nửa đêm. Một đốc công lập tức huy động 8,000 nhân công nội trú trong nhà máy chuẩn bị lên ca ngay. Họ được phát bánh mì và nước trà, rồi được hướng dẫn đến vị trí làm việc. Trong vòng nửa tiếng, họ bắt đầu ca làm việc kéo dài 12 tiếng và trong 96 giờ, nhà máy sản xuất được hơn 10,000 iPhone.
Người cựu giám đốc nói: “Tốc độ và sự linh động thật là không thể tưởng tượng nỗi. Không một cơ xưởng sản xuất nào ở Hoa Kỳ có thể sánh lại.”
Câu chuyện tương tự cũng có thể nghe được nơi hầu hết các công ty sản xuất đồ điện tử khác, và việc đưa công việc ra sản xuất ở ngoại quốc cũng trở nên quá phổ biến đối với hàng trăm ngành kỹ nghệ khác như kế toán, dịch vụ pháp lý, ngân hàng, chế tạo xe hơi và y dược.
Betsey Stevenson, cựu kinh tế trưởng tại Bộ Lao Ðộng cho đến Tháng Chín năm ngoái, nêu ý kiến với New York Times: “Có một thời nhiều công ty cảm thấy có bổn phận phải ủng hộ công nhân Hoa Kỳ, dù rằng đó không phải là một chọn lựa tốt nhất về mặt tài chính. Chuyện đó nay đã hết rồi. Lợi nhuận và hiệu năng kinh doanh đã thắng lướt lòng hào hiệp đó.” Các công ty và kinh tế gia đều đồng ý đó là một ý niệm ngây ngô.
Nhiều giám đốc công ty nói, mặc dù người Mỹ nằm trong số những công nhân có học thức nhất thế giới, nhưng đất nước này đã không còn đào tạo đủ người có kỹ năng ở hạng bậc trung mà các nhà máy cần đến.

Apple's CEOs: Giải quyết nạn thất nghiệp không phải là việc của Apple

Theo các công ty, để phát triển, họ phải dọn đến nơi nào mang lại được đủ lợi nhuận, để họ có thể cải tiến thêm cho sản phẩm của mình. Làm ngược lại, nhiều công việc ở Mỹ chỉ gặp rủi ro thêm vì bị mất dần theo thời gian. Chứng cớ thấy được nơi các công ty một thời là niềm hãnh diện quốc gia như GM và nhiều đại công ty khác, đã bị co cụm trước sự cạnh tranh của những công ty mới trỗi lên có sự hoạt động khá linh hoạt.
Theo nhiều giám đốc của Apple, thế giới ngày nay đang thay đổi nhiều. Họ cho biết, đánh giá một công ty qua số công nhân làm việc như trước đây là điều lầm lẫn và nhấn mạnh thêm rằng thực ra Apple giúp mướn người ở Mỹ làm việc nhiều hơn bất kỳ lúc nào trước đây. Họ nói sự thành công của Apple mang lại nguồn lợi cho nền kinh tế Hoa Kỳ, như giúp cho các công ty thầu làm sản phẩm của Apple được lớn mạnh thêm, tạo công việc làm ở nhiều công ty chuyên cung cấp dịch vụ điện thoại di động, ngành kinh doanh vận chuyển sản phẩm của Apple. Nhưng nói cho cùng, theo các tổng giám đốc của Apple, giải quyết nạn thất nghiệp không phải là việc của Apple.
Một tổng giám đốc của Apple nói: “Chúng tôi bán iPhone đến hơn một trăm quốc gia. Bổn phận của chúng tôi không phải là giải quyết vấn đề của nước Mỹ. Ðiều bắt buộc duy nhất đối với chúng tôi là làm sao làm ra sản phẩm càng tuyệt hảo càng tốt.”

Chuyện cái màn hình của iPhone

Năm 2007, không hơn một tháng trước khi iPhone được bày bán trên thị trường, tổng giám đốc Jobs cho vời khoảng một chục nhân vật cao cấp dưới quyền vào văn phòng. Ông cho biết ông mang theo trong túi cái điện thoại di động đang thử nghiệm suốt nhiều tuần qua. Rồi ông giận dữ đưa chiếc iPhone lên, xoay nghiêng để mọi người có thể thấy được hằng chục vết trầy trên màn hình nhựa. Kế đó ông lôi chùm chìa khóa từ trong túi quần jean ra, và nói:
“Người ta mang theo điện thoại, để trong túi. Người ta mang theo chìa khóa và cũng để trong túi. Tôi không bán một sản phẩm có thể dễ bị trầy xước. Giải pháp duy nhất là phải có một màn hình bằng kiếng không thể trầy được. Tôi muốn có màn hình bằng kiếng và tôi muốn thấy iPhone phải hoàn chỉnh nội trong sáu tuần.”
Một giám đốc rời phòng họp và tức tốc bay qua Thẩm Quyến (Shenzhen), ở Trung Quốc. Nếu ông Jobs muốn hoàn hảo thì không nơi đâu để đi, ngoại trừ Trung Quốc.
Trong suốt nhiều năm, các hãng sản xuất điện thoại di động cố tránh không làm màn hình bằng kiếng vì đòi hỏi phải cắt và mài với độ chính xác cao, vốn là điều hết sức khó đạt được. Apple từng chọn Corning Inc., một công ty Mỹ để chế tạo những tấm kiếng chịu lực lớn. Nhưng trở ngại là làm sao từ đó có thể cắt ra thành hằng triệu màn hình nhỏ cho iPhone. Việc này đòi hỏi phải có một nhà máy để trống, chỉ dùng cho mỗi công việc cắt, và có sẵn hàng trăm mảnh kiếng dùng để thí nghiệm, cùng một đội quân gồm toàn kỹ sư có trình độ bậc trung. Tốn phí dĩ nhiên không phải nhỏ chỉ cho giai đoạn chuẩn bị mà thôi.
Thế rồi một cơ xưởng ở Trung Quốc đề nghị thầu làm việc này.
Khi một toán đại diện của Apple ghé qua, chủ nhân nhà máy đã cho nới rộng thêm xong một cánh của cơ xưởng. Người giám đốc nói, họ làm vậy phòng khi được Apple giao thầu, trong khi chính quyền Trung Quốc cũng đồng ý trợ cấp cho nhà máy. Họ có sẵn một nhà kho chứa đầy các mặt kiếng mẫu cho Apple thử nghiệm, các kỹ sư cũng túc trực sẵn, tất cả hoàn toàn miễn phí. Ngoài ra họ còn xây thêm một ký túc xá cho công nhân, nhờ vậy lực lượng lao động luôn luôn sẵn sàng 24 trên 24. Thế là nhà máy của Trung Quốc này trúng thầu.
Một giám đốc cao cấp của Apple nói: “Toàn bộ dây chuyền tiếp liệu bây giờ đều nằm ở Trung Quốc. Quí vị cần một ngàn miếng đệm cao su? Một nhà máy khác ở kế bên sẽ lo việc đó. Quí vị cần một triệu đinh ốc? Xưởng làm thứ đó chỉ cách một khu phố. Quí vị muốn thay đổi đinh ốc đó lại một chút đỉnh? Chỉ chờ ba tiếng thôi!”

Apple không thể đi đâu ngoài Trung Quốc

Cách nhà máy làm màn hình kiếng tám giờ lái xe là Foxconn City, tên gọi khu kỹ nghệ nơi iPhone được lắp ráp. Theo các chóp bu Apple, Foxconn City là chứng cớ cụ thể hơn cho thấy chỉ Trung Quốc mới cung cấp đủ nhân công làm việc, và sự cần cù của họ vượt hẳn công nhân người Mỹ.
Tại Foxconn City có 230,000 công nhân, phần nhiều làm 6 ngày mỗi tuần và thông thường là 12 tiếng mỗi ngày. Hơn một phần tư trong số đó ở lại trong ký túc xá của nhà máy và đa số chỉ lãnh $17 mỗi ngày. Khi một giám đốc Apple đến nơi vào lúc đổi ca, xe ông bị kẹt trong một biển người. Nhà máy phải mướn đến 300 bảo vệ để điều hòa lưu thông của dòng người đi bộ, để họ không bị đè bẹp nơi cổng vào. Nhà bếp chính của cơ xưởng phải nấu trung bình ba tấn thịt heo và 13 tấn gạo mỗi ngày cho công nhân. Trong khi đâu đâu cũng sạch sẽ không một vết dơ thì ở phòng giải khát, lại nồng nặc mùi khói thuốc.
Foxconn Technology có hằng chục cơ xưởng ở Á Châu, Ðông Âu, Mexico và Brazil. Họ lắp ráp cho 40% các đồ điện tử trên thế giới cho các khách hàng như Amazon, Dell, Hewlett-Packard, Motorola, Nintendo, Nokia, Samsung và Sony.
Jennifer Rigoni là người từng làm quản trị nhu cầu tiếp liệu toàn cầu cho Apple đến năm 2010. Bà nói: “Chỉ một đêm, họ có thể mướn vào 3,000 thợ. Ở Mỹ có hãng nào làm được như vậy không? Chưa kể thuyết phục được họ ở lại trong nhà máy.”

13 ngành học khó kiếm việc làm nhất nước Mỹ


   Trang tin tức The Daily Beast mới đây đã tổng hợp các số liệu lao động và việc làm để chọn ra 13 ngành học vô ích nhất nước Mỹ, bao gồm cả báo chí và triết học.
Bảng xếp hạng của The Daily Beast dựa trên nghiên cứu mới từ Trường đại học Georgetown vốn sử dụng dữ liệu trong hai năm qua để xác định triển vọng của vô số ngành học.
The Daily Beast cũng sử dụng dữ liệu từ Cục Thống kê Lao động Mỹ để xác định tỉ lệ thất nghiệp hiện tại và tương lai cùng thu nhập tiềm năng để đưa ra bảng xếp hạng dựa vào các hạng mục dưới đây:
- Tỉ lệ thất nghiệp của sinh viên mới tốt nghiệp
- Tỉ lệ thất nghiệp của sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm
- Thu nhập của sinh viên mới tốt nghiệp
- Thu nhập của sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm
- Tăng trưởng việc làm dự kiến từ 2010 đến 2020

 Các sinh viên Trường đại học Harvard - Ảnh: Reuters

1. Mỹ thuật
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp thất nghiệp: 12,6%
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm thất nghiệp: 7,3%
Thu nhập của sinh viên mới tốt nghiệp: 30.000 USD/năm
Thu nhập của sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm: 45.000 USD/năm
Tăng trưởng việc làm dự kiến: 5%
Nghề nghiệp liên quan: Thủ công và mỹ thuật
2. Kịch nghệ
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp thất nghiệp: 7,8%
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm thất nghiệp: 8,8%
Thu nhập của sinh viên mới tốt nghiệp: 26.000 USD/năm
Thu nhập của sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm: 45.000 USD/năm
Tăng trưởng việc làm dự kiến: 4%
Nghề nghiệp liên quan: Diễn viên
3. Nhiếp ảnh, quay phim

 Phóng viên ảnh của Reuters tác nghiệp trong thảm họa động đất sóng thần ở Nhật vào năm 2011 - Ảnh: Reuters
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp thất nghiệp: 12,9%
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm thất nghiệp: 6,7%
Thu nhập của sinh viên mới tốt nghiệp: 30.000 USD/năm
Thu nhập của sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm: 50.000 USD/năm
Tăng trưởng việc làm dự kiến: 9%
Nghề nghiệp liên quan: Biên tập phim ảnh, chụp hình
4. Nghệ thuật quảng cáo và Thiết kế đồ họa
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp thất nghiệp: 11,8%
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm thất nghiệp: 7,5%
Thu nhập của sinh viên mới tốt nghiệp: 32.000 USD/năm
Thu nhập của sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm: 49.000 USD/năm
Tăng trưởng việc làm dự kiến: 13%
Nghề nghiệp liên quan: Thiết kế đồ họa
5. Kiến trúc
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp thất nghiệp: 13,9%
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm thất nghiệp: 9,2%
Thu nhập của sinh viên mới tốt nghiệp: 36.000 USD/năm
Thu nhập của sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm: 64.000 USD/năm
Tăng trưởng việc làm dự kiến: 24%
Nghề nghiệp liên quan: Kiến trúc sư

 Một kiến trúc sư với các bản thiết kế - Ảnh: AFP

6. Nghiên cứu triết học và tôn giáo
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp thất nghiệp: 10,8%
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm thất nghiệp: 6,8%
Thu nhập của sinh viên mới tốt nghiệp: 30.000 USD/năm
Thu nhập của sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm: 48.000 USD/năm
Tăng trưởng việc làm dự kiến: 17%
Nghề nghiệp liên quan: Giảng viên đại học hoặc cao học
7. Văn chương và Ngôn ngữ tiếng Anh
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp thất nghiệp: 9,2%
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm thất nghiệp: 6,2%
Thu nhập của sinh viên mới tốt nghiệp: 32.000 USD/năm
Thu nhập của sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm: 52.000 USD/năm
Tăng trưởng việc làm dự kiến: 6%
Nghề nghiệp liên quan: Nhà văn
8. Báo chí
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp thất nghiệp: 7,7%
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm thất nghiệp: 6%
Thu nhập của sinh viên mới tốt nghiệp: 32.000 USD/năm
Thu nhập của sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm: 58.000 USD/năm
Tăng trưởng việc làm dự kiến: -6%
Nghề nghiệp liên quan: Phóng viên, thông tín viên, chuyên gia bình luận tin tức

 Phóng viên còn là một nghề nghiệp nguy hiểm. Nhà báo Marie Colvin đã thiệt mạng khi tác nghiệp tại Syria - Ảnh: AFP
9. Nhân chủng học và Khảo cổ học
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp thất nghiệp: 10,5%
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm thất nghiệp: 6,2%
Thu nhập của sinh viên mới tốt nghiệp: 28.000 USD/năm
Thu nhập của sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm: 47.000 USD/năm
Tăng trưởng việc làm dự kiến: 21%
Nghề nghiệp liên quan: Nhà nhân chủng học và nhà khảo cổ học
10. Quản lý khách sạn
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp thất nghiệp: 9,1%
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm thất nghiệp: 5,7%
Thu nhập của sinh viên mới tốt nghiệp: 32.000 USD/năm
Thu nhập của sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm: 53.000 USD/năm
Tăng trưởng việc làm dự kiến: 8%
Nghề nghiệp liên quan: Quản lý khách sạn, nhà hàng
11. Âm nhạc
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp thất nghiệp: 9,2%
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm thất nghiệp: 4,5%
Thu nhập của sinh viên mới tốt nghiệp: 30.000 USD/năm
Thu nhập của sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm: 45.000 USD/năm
Tăng trưởng việc làm dự kiến: 10%
Nghề nghiệp liên quan: Ca sĩ và nhạc sĩ

 Ca sĩ Whitney Houston - Ảnh: Reuters
12. Lịch sử
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp thất nghiệp: 10,2%
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm thất nghiệp: 5,8%
Thu nhập của sinh viên mới tốt nghiệp: 32.000 USD/năm
Thu nhập của sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm: 54.000 USD/năm
Tăng trưởng việc làm dự kiến: 18%
Nghề nghiệp liên quan: Sử gia

13. Khoa học chính trị và Quản lý hành chính công
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp thất nghiệp: 9,1%
Tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm thất nghiệp: 6%
Thu nhập của sinh viên mới tốt nghiệp: 35.000 USD/năm
Thu nhập của sinh viên tốt nghiệp có kinh nghiệm: 65.000 USD/năm
Tăng trưởng việc làm dự kiến: 8%
Nghề nghiệp liên quan: Nhà khoa học chính trị

Rối loạn phát triển


Rối loạn phát triển ở trẻ em thường được chẩn đoán bằng cách quan sát hành vi, nhưng Aditi Shankardass đã nhận ra rằng chúng ta nên nhìn trực tiếp vào não bộ của những trẻ em này. Cô giải thích về việc làm thế nào mà thiết bị EEG ở phòng thí nghiệm của cô phát hiện được những chẩn đoán sai lầm và thay đổi cuộc sống của những trẻ em mắc bệnh.

Cho vay vàng mua đất: Hàng trăm ngàn lượng khó thu hồi


Cho vay vàng để đầu tư BĐS, đến khi BĐS xuống giá, các ngân hàng ôm đống nợ khó đòi hàng trăm ngàn lượng.

Thông tư 12 nhằm hỗ trợ thanh khoản cho một số ngân hàng khó khăn, tạo thăng bằng với số vàng cho vay chưa thu hồi được nợ và vàng tồn quỹ. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) gia hạn cho các ngân hàng tiếp tục được phát hành chứng chỉ ngắn hạn bằng vàng tới trước ngày 25/11/2012.
Theo các chuyên gia, quyết định này nhằm hỗ trợ thanh khoản cho một số ngân hàng khó khăn, thời gian qua đã mang vàng cầm cố để vay vốn tiền đồng và ngoại tệ của ngân hàng bạn.
Lãnh đạo một ngân hàng lớn ở TPHCM - đơn vị có số dư huy động vàng lên đến 1,3 triệu lượng, tương đương với số vàng huy động của 11 ngân hàng trên địa bàn thành phố - cho biết, nguyên nhân một ngân hàng có số vốn vàng huy động bằng 50% số vàng huy động của các ngân hàng trên địa bàn thành phố do vừa qua các ngân hàng nhỏ mang vàng huy động đến ngân hàng lớn này cầm cố, thế chấp vay tiền đồng ngoại tệ hỗ trợ thanh khoản. Từ đó, đẩy số vàng nắm giữ của ngân hàng này lên cao.
Trong 12 ngân hàng có dư nợ vàng ở TPHCM số vàng tồn quỹ lớn nhất phải kể đến là ACB, DongA Bank... tổng số vốn lên đến gần trăm tỷ đồng.
Ngoài việc huy động vàng làm tài sản đảm bảo vay vốn bằng tiền lẫn nhau trên thị trường liên ngân hàng, dư nợ vàng trong các ngân hàng hơn một năm qua chưa giảm nhiều. Việc Thông tư 12 cho phép ngân hàng được tiếp tục phát hành chứng chỉ vàng ngắn hạn (có trả lãi suất như tiết kiệm) đến 25/11/2012 sẽ tạo thăng bằng với số vàng cho vay chưa thu hồi được nợ và vàng tồn quỹ.
Tại TPHCM - thị trường vàng lớn nhất nước - tổng dư nợ cho vay vàng hiện còn hơn 600.000 lượng chưa thể thu hồi. Trong đó, dư nợ cho vay vốn bằng vàng để đầu tư và kinh doanh bất động sản chiếm tỷ trọng cao của các ngân hàng, kế đến là dư nợ cho vay vốn bằng vàng để sản xuất kinh doanh, cho vay chế tác nữ trang...
Trong điều kiện kinh tế khó khăn, bên vay chưa thể trả được những khoản nợ vay vốn bằng vàng từ những năm trước đây nên tỷ trọng nợ khó đòi đang đẩy các ngân hàng vào chỗ khó tất toán dư nợ vàng.
Cụ thể, tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ cho vay vốn bằng vàng của từng ngân hàng tính đến hết tháng 2/2012 lần lượt: NamABank 18,21%, VietABank 11,62%, SouthernBank 5,4%, OCB 4,97%, Eximbank 4,13%, SCB 3,52%, ACB là 0,98%, DongABank 0,03%.
Bên cạnh đó, quy định cấm ngân hàng huy động vàng trong dân dùng để cầm cố thế chấp, ký quỹ đảm bảm cho việc vay nợ của ngân hàng trên thị trường liên ngân hàng tại Thông tư 12 cũng sẽ góp phần chấm dứt dây dưa dư nợ vàng trong các ngân hàng, lập lại trật tự trên thị trường vay mượn vốn của các ngân hàng khi một số ngân hàng thời gian qua đã thao túng kiếm lời trong lúc ngân hàng bạn khó khăn.
Theo Thời báo Ngân hàng

Hãy cùng khám phá thuyết “hai mặt” của vật chất nhé.

 
Đó là những phát minh vô cùng quan trọng đối với nhân loại được nghiên cứu để phục vụ cho sự sống và phát triển của con người. Thế nhưng, “vô tình” hoặc “cố ý” những phát minh ấy đã gây ra những thảm họa khủng khiếp đến với môi trường sống, và thậm chí cướp đi biết bao sinh mạng quý giá.
 
Zyklon B
 
 
Fritz Haber là một nhà khoa học người Do Thái, đã được giải Nobel khoa học với việc phát minh ra phân bón nitơ rẻ tiền, nhằm giúp phát triển ngành nông nghiệp. Thế nhưng Zyklon B đã trở thành một nguyên liệu quan trọng để người Đức chế tạo vũ khí hóa học trong Thế chiến thứ I. Vì thế, Zyklon B phải chịu trách nhiệm gián tiếp trước cái chết ước tính khoảng 1,2 triệu người.
 
Chất độc màu da cam
 
Nhà khoa học Arthur Galston đã nghiên cứu phát triển chất hóa học có tác dụng làm tăng tốc độ tăng trưởng của đậu tương và cho phép chúng có thể trông theo vụ mùa ngắn hạn. Thật không may, nếu chất hóa học này sử dụng với nồng độ cao sẽ trở thành một thoại thuốc diệt cỏ mạnh, và có ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của con người nhất là rơi vào tay những kẻ hiếu chiến khát máu.
 
 
Chính phủ Hoa Kỳ đã cung cấp 77 triệu lít chất độc da cam và rải chúng vào đất nước Việt Nam, gây ra 400 nghìn ca tử vong và tật nguyền, kèm theo đó là di chứng khiến hơn 500 nghìn đứa trẻ bị dị tật bẩm sinh. Chúng ta nên căm giận Hoa Kỳ hay Arthur Galston?
 
Súng đa nòng Gatling
  
 
Richard Jordan Gatling đã phát minh ra súng Gatling sau khi ông nhận thấy số người chết trong cuộc nội chiến tại Hoa Kỳ là vì bệnh tật chứ không phải vì tiếng súng. Năm 1877, ông từng viết “Một ý nghĩ xuất hiện trong đầu tôi rằng nếu tôi có thể tạo ra một bộ máy – tức là một khẩu súng – có tốc độ của lửa, cho phép một người lính có thể thực hiện trăm nhiệm vụ như một, thì sẽ chẳng cần đến một lực lượng quân đội hùng hậu, và do đó sẽ giảm được rất nhiều số người phải nhập quân ngũ rồi chết vì bệnh tật.” Liệu đó có phải là một ý tưởng “ngây thơ” không? Bởi sau khi súng Gatling ra đời, thực dân châu Âu đã sử dụng thứ vũ khí siêu đẳng này một cách tàn bạo đối với các dân tộc bản địa.
 
Thuốc nổ TNT
 
 
Joseph Wilbrand là một nhà hóa học người Đức, là tác giả của Trinitrôtôluen – TNT –  nổi tiếng vào năm 1863. Ban đầu, Trinitrôtôluen được phát minh với mục đích tạo ra một loại thuốc nhuộm vàng. Trớ trêu thay đến năm 1902, trước sức mạnh tàn phá khủng khiếp trong chiến tranh thế giới thứ I và II, đã khẳng định tên tuổi của TNT với vai trò là một loại vũ khí – thuốc nổ - tuyệt vời! Cho đến nay, người ta vẫn biết đến TNT là thuốc nổ nhiều hơn là thuốc nhuộm.
 
Xăng pha chì
 
 
Thomas Midgley đã khám phá ra CFC Freon là một chất làm lạnh an toàn, thay thế cho các chất làm lạnh có độc tính cao phổ biến khác như ammonia. Thế nhưng, phát minh này lại gây tổn hại nghiêm trọng đến tầng Ozon. Một “thành tựu” nổi tiếng khác của ông là việc thêm chì vào xăng để chống kích nổ, thậm chí gây tử vong do ngộ độc chì. Chính vì vậy, chẳng ai ngạc nhiên khi Midgley được ví như một con người đã có tác động xấu nhiều đến bầu khí quyển hơn bất kỳ một nhân vật nào khác trong lịch sử của Trái đất.

Nhà khoa học chết vì phát minh của chính mình


Có rất nhiều điều mà chúng ta chưa biết.


1.Henry Winstanley

Henry Winstaley là một kiến trúc sư, kỹ sư về hải đăng nổi tiếng ở Anh quốc. Ông đã thiết kế ra ngọn đèn biển Eddystone. Winstanley muốn thử nghiệm sức chịu đựng của công trình nên đã ở lại ngọn hải đăng trong khi bão tố nổi lên. Trong lần thử nghiệm, ngọn hải đăng đã sụp đổ giết chết Winstanley và 5 người khác.
--------------------------------------o0o---------------------------------------------

2.Alexander Bogdanov

Alexander Bogdanov là bác sĩ, triết gia, nhà kinh tế, nhà tiểu thuyết khoa học và là nhà cách mạng lỗi lạc của Nga. Một ý tưởng trong các thí nghiệm khoa học của ông là khả năng tái tạo cơ thể thông qua cơ chế truyền máu. Ông đã từng thực hiện việc truyền máu cho rất nhiều bệnh nhân nổi tiếng trong đó có cả chị gái của Lenin. Để thực hiện ý tưởng của mình, Bogdanov quyết định tự truyền vào cơ thể mình máu của một bệnh nhân mắc bệnh sốt rét và bệnh lao. Sau đó không lâu, ông đã chết vì bị nhiễm loại virus này.
--------------------------------------o0o---------------------------------------------


3.Cowper Phipps Coles

Cowper Phipps Coles là một sĩ quan Hải quân hoàng gia Anh xuất sắc. Trong thời gian truy quét bọn cướp biển, ông chế tạo ra tháp pháo cho tàu chiến. Phát mình của ông cũng được hải quân của nhiều nước khác sử dụng. Sau cuộc chiến, ông có ý định xây dựng “boong tàu bão tố” nhằm giúp tăng trọng lực của trung tâm con tàu. Tuy nhiên, ngày 6/9/1870, khi thử nghiệm chế tạo mới, con tàu HMS Captain bị lật khiến Coles và ít nhất 500 thủy thủ khác thiệt mạng.
--------------------------------------o0o---------------------------------------------

4.Karel Soucek

Karel Soucek là một diễn viên đóng thế người Canada. Vào năm 1985, anh thuyết phục công ty tài trợ tổ chức buổi biểu diễn ở Houston Astrodome, Texas. Từ một thác nước cao 55m, Soucek nhảy xuống phía dưới với capxun, một loại thiết bị bảo vệ bao quanh cơ thể. Cuộc biểu diễn gặp sự cố, Soucek ngã đập xuống bờ vực thay vì ngã xuống nước. Capxun vỡ vụn, Karel bị chấn thương trầm trọng. Anh mất ngay ngày hôm sau. Chiếc capxun của Soucek hiện được trưng bày tại bảo tàng quốc gia New York.
--------------------------------------o0o---------------------------------------------

5.Franz Reichelt

Franz Reichelt là thợ may người Áo rất nổi tiếng trong việc thiết kế các áo choàng độc đáo hay những vật mang chất liệu bằng dù mà anh cho rằng có thể bay cùng với nó. Anh đã ứng dụng thử nghiệm của mình bằng cách thực hiện cú nhảy trực tiếp từ tầng trên cùng tháp Eiffel trước sự chứng kiến của nhiều khán giả và nhóm quay phim. Điều đáng tiếc là bộ quần áo đặc biệt không giúp Reichelt thoát khỏi chấn thương, anh chết ngay sau đó do vết thương quá nặng.
(Nguồn: Sưu tầm )



6.Otto Lilienthal

Otto Lilienthal là nhà tiên phong của lĩnh vực hàng không dân dụng và được biết đến như “ông vua bay lượn”. Ông là người đầu tiên thành công khi tái diễn lại những chuyến bay lượn trên không trung. Các tờ báo và tạp chí của nhiều quốc gia cho xuất bản những bức ảnh của Lilienthal bay lượn ca ngợi những ý tưởng về khả năng chuyển động của máy móc trên không trung trở thành sự thật sau nhiều thế kỷ lãng quên. Trong chuyến bay ngày 9/8/1896, Lilienthal đã ngã từ độ cao 17m và bị gãy xương sống và qua đời. Lời cuối cùng anh để lại là “Cần phải có những sự hy sinh nhỏ bé”
-------------------------------------------o0o-----------------------------------------------------
7.William Bullock

William Bullock là một nhà khoa học người Mỹ đã phát minh ra máy in quay vào năm 1863. Chính điều này đã tạo ra cuộc cách mạng trong ngành công nghiệp in ấn có tốc độ nhanh và hiệu quả hơn. Thế nhưng, Bullock đã chết trong khi đang có gắng sửa chữa độ nén của máy in. Bàn chân của anh bị đè dưới máy trong khi anh đang gắng sức đẩy ròng rọc vào đúng vị trí. Sau đó, vết thương bị bị hoại thư, Bullock đã chết trong khi đang phẫu thuật cắt bỏ bàn chân.



-------------------------------------------o0o-----------------------------------------------------
8.J. G. Parry-Thomas



John Godfrey Parry-Thomas vừa là tay đua môtô vừa là một kỹ sư xứ Wales. Thomas luôn luôn ao ước phá vỡ kỷ lục về tốc độ lái xe đường bộ của Malcolm Campbell và tự thiết kế ra một chiếc ôtô để thực hiện giấc mơ đó. Anh sáng chế ra chiếc ôtô mang tên Babs với rất nhiều tính năng khác biệt như xích xe để hở khi kết nối bánh xe với các động cơ. Vào ngày 27/4/1926, Parry-Thomas đã phá vỡ được kỷ lục khi đạt tốc độ 273 km một giờ. Tốc độ này xô đổ kỷ lục được một năm trước của Malcolm Campbell. Thế nhưng, trong một lần đua sau đó, Thomas đã bị một dây xích của xe văng ra đập thẳng vào cổ và gần như cứa đứt đầu khiến anh chết tại chỗ.
-------------------------------------------o0o-----------------------------------------------------
9.Thomas Midgley Jr



Thomas Midgley là nhà hoá học người Mỹ đã sáng tạo ra xăng pha chì. Môi trường làm việc khiến ông bị nhiễm độc chì và buộc phải nằm một chỗ. Không đầu hàng số phận, Midgley phát minh ra một hệ thống ròng rọc, dây cáp nhằm giúp ông đứng dậy khỏi giường. Thế nhưng, chính hệ thống đó trực tiếp gây ra cái chết của Midgley. Ông bị quấn vào ròng rọc và chết vào năm 55 tuổi
-------------------------------------------o0o-----------------------------------------------------
10.Marie Curie



Marie Curie là nhà vật lý - hoá học người Balan. Bà nổi tiếng với những phát hiện nguyên tố phóng xạ radi và poloni. Bà đã tiến hành thí nghiệm trong ống chứa các ion phóng xạ và bảo quản chúng trong ngăn kéo bàn, ánh sáng xanh rất đẹp tư các chất đó phát ra trong bóng tối. Thế nhưng, những bức xạ này lại có tác động nghiêm trọng tới sức khỏe của người tìm ra chúng. Không có những thiết bị bảo hộ cần thiết, Curie mất vào ngày 4/7/1934 do bệnh thiếu máu.
(Nguồn: Sưu tầm )

Bám trụ Thủ đô, cử nhân nhập viện tâm thần


Cầm trên tay tấm bằng đại học, thậm chí là tấm bằng loại ưu, nhiều bạn trẻ vẫn không thể xin được việc... sau một thời gian ngậm ngùi làm xe ôm, bồi bàn, trông xe... rất nhiều người trong số đó đã phải nhập viện tâm thần vì stress quá nặng.
Bám trụ Thủ đô, cử nhân nhập viện tâm thần
Nhiều bạn trẻ bị trầm cảm vì không tìm được công việc phù hợp.
Ngày làm xe ôm, tối làm bồi bàn

Ngày tốt nghiệp đại học Kinh tế Quốc dân với tấm bằng khá trên tay, giống như bao nhiêu những sinh viên khác, Hùng cũng hớn hở mang hồ sơ đi rải khắp các công ty, doanh nghiệp rồi mơ đến cảnh tượng được bước chân vào một công ty lớn để làm việc và cống hiến.
Nhưng một tháng, 2 tháng, rồi 1 năm trôi qua, chưa kịp đem tâm huyết và những kiến thức đã học được trong nhà trường để áp dụng vào công việc thì Hùng đã phải vào viện tâm thần trong trạng thái khủng hoảng tinh thần, trầm cảm nặng...

Tại bệnh viện tâm thần, hồi tưởng lại quãng thời gian đã qua, Hùng chua chát: “Hồi đó, cũng có mấy chỗ gọi em đến phỏng vấn, nhưng rồi họ lại từ chối thẳng thừng vì ở đâu cũng yêu cầu phải có kinh nghiệm làm việc. Mà, 4 năm học đại học, suốt ngày chỉ biết mài đũng quần hết giảng đường lại đến thư viện để kiếm được tấm bằng loại ưu thì lấy đâu ra thứ xa xỉ ấy".

63% sinh viên tốt nghiệp không có việc làm
Theo điều tra của Bộ GD-ĐT công bố năm 2011, cả nước có tới 63% sinh viên tốt nghiệp ĐH-CĐ ra trường không có việc làm, 37% có việc làm nhưng nhiều SV phải làm trái nghề hoặc phải qua đào tạo lại.
Đáng lo ngại hơn, theo thống kê của Cục việc làm (Bộ LĐ-TB-XH), sáu tháng đầu năm 2011 tình trạng lao động mất việc làm tăng cao hơn khá nhiều so với cùng kỳ năm 2010.
Không kiếm được việc theo đúng chuyên nghành đào tạo, trong khi viện trợ từ phía gia đình đã bị cắt từ lâu. Em đành ngậm ngùi mang chiếc xe máy mới mua ra đầu ngõ làm xe ôm, kiếm chút tiền chi tiêu. Rồi, có đứa bạn giới thiệu, em xin được chân bồi bàn trong một quán rượu trên phố Tràng Tiền, với mức lương 1 triệu 8".

“Cứ tưởng, đã làm đến cái nghề chả phải dính líu gì đến bằng cấp, kinh nghiệm đó rồi thì sẽ được yên phận để tiếp tục duy trì cuộc sống và chờ đợi cơ hội việc làm theo đúng chuyên ngành của mình. Không ngờ, cũng chẳng được yên thân.

Đi làm xe ôm thì không ít lần bị khách quỵt tiền, rồi còn bị mấy ông “đồng nghiệp” trong khu dọa “đánh cho què chân” vì xâm phạm vào đất làm ăn của họ. Đến mức sợ quá, em không còn dám đi làm xe ôm nữa.

Còn, công việc trong quán rượu, lúc đầu, cứ tưởng đơn giản nhưng cũng không hề đơn giản chút nào, nhiều khi không cẩn thận chỉ cần lỡ tay làm rơi một ly rượu, là tiền lương cả tháng cũng chả đủ để bù”.

Vào viện tâm thần vì stress quá nặng

Hơn một năm bươn trải với rất nhiều các công việc tạm bợ khác nhau. Nhưng thu nhập cũng chẳng đủ để Hùng duy trì cuộc sống đắt đỏ nơi Thủ đô. Trong khi đó, lại thêm áp lực về việc kiếm tiền để nuôi đứa em vừa vào đại học càng khiến Hùng bị treess nặng nề.
Từ một người hay nói, dễ gần, dần dần Hùng trở nên ít giao tiếp và xa lánh với mọi người xung quanh. Theo lời giải thích của Hùng thì lý do là vì: “Lúc nào em cũng nghĩ mình không bằng bạn bằng bè, trong khi mọi người ra trường, kiếm việc làm ổn định, thậm chí có người còn có thu nhập cao, còn mình suốt 1 năm trời cứ vất va vất vưởng”.

Hùng kể, đã có không dưới một lần, Hùng định tìm đến cái chết để kết thúc cuộc sống vô nghĩa của mình nhưng không thành. Đến khi gia đình biết chuyện, thì mới đưa Hùng vào bệnh viện tâm thần để khám và điều trị.

Sau gần 4 tháng điều trị tại bệnh viện tâm thần, được học thiền, được nói chuyện chia sẻ, được nghe nhạc trị liệu… những nụ cười trên gương mặt của Hùng mới xuất hiện trở lại. Hùng bảo, ra viện lần này, em sẽ lại về quê để xin việc, chứ không khổ sở bám lấy đất Thủ đô này nữa.  
 Giới trẻ bị tâm thần là do thiếu kỹ năng
Theo phân tích của chuyên gia tâm lý Vũ Thu Hà, Trung tâm ứng dụng tâm lý Hoa Mặt Trời, các bạn trẻ là sinh viên mới ra trường là những người có năng lượng và nhu cầu thể hiện bản thân rất lớn. Tuy nhiên, không phải lúc nào họ cũng tìm được môi trường thích hợp để thể hiện và phát huy khả năng của mình. Do vậy, trong thời gian chờ đợi công việc, họ rất dễ có tâm lý chán nản và thất vọng ...

Bên cạnh đó, việc thiếu những kỹ năng xã hội như kỹ năng giải quyết vấn đề, sự kiên định hoặc tìm kiếm sự hỗ trợ cũng khiến cho các bạn trẻ không có nhiều tư thế chủ động trong việc tìm kiếm công việc, kiên trì theo đuổi sự nghiệp.

Đấy là nguyên nhân vì sao nhiều sinh viên sau khi ra trường không kiếm được việc làm, và mắc các chứng bệnh lo âu hoặc căng thẳng.

Tỉ lệ người nước ngoài nhận Hartz IV đáng báo động


Tỉ lệ người nước ngoài  nhận Hartz IV đáng báo động
Tỉ lệ người nước ngoài nhận Hartz IV đáng báo động
Theo số liệu của Cơ quan lao động liên bang (BA) và Cơ quan thống kê liên bang (Destatis), tỉ lệ những người nước ngoài nhận tiền Hartz IV hiện nay ở Đức cao hơn gấp đôi so với người có hộ chiếu Đức (17,6% so với 6,9%). Theo báo Bild, đây là một tỉ lệ đáng báo động.
Đặc biệt, những người đến từ I-rắc có tỉ lệ nhận Hartz IV cao nhất trong nhóm người nước ngoài: tới 64% (tức là cứ 3 người I-rắc thì có 2 người thất nghiệp và nhận Hartz IV). Tiếp đó là người Afghanistan (52%) và người Pakistan (47%).
Cách đây một năm, khi tỉ lệ nhận Hartz IV của người nước ngoài được công bố, Bộ trưởng Lao động von der Leyen (CDU) đã nói rằng bà muốn có một sự thay đổi, nhưng một năm qua đi, tình hình dường như không có nhiều tiến triển.
Tỉ lệ nhận Hartz IV trong năm 2011 giảm đôi chút ở nhóm người Ukraina (giảm 3%), người Nga (giảm 4%) và người Kazacstan (giảm 5%), đồng thời tăng nhẹ ở nhóm người Serbia (tăng 2%).
Trong danh sách về tỉ lệ nhận tiền Hartz IV của người nước ngoài, hiện tại ở Đức có 84301 người Việt Nam, trong đó 22.922 người nhận Hartz IV, chiếm tỉ lệ 27%. Điều này có nghĩa là cứ 4 người Việt Nam ở Đức thì có 1 người nhận tiền Hartz IV.
Dưới đây là thống kê chi tiết cho các nhóm người nước ngoài ở Đức:

Nationalität
Insgesamt in Deutschland
davon Hartz-IV Empfänger
Anteil
Irak
81.272
52.075
64%
Afghanistan
51305
26 858
52%
Pakistan
29184
13636
47%
Ghana
21377
8977
42%
Syrien
30133
12307
41%
Iran
51885
21342
41%
Sri Lanka
26 628
10587
40%
Algerien
13199
4771
36%
Marokko
63 570
21066
33%
Nigeria
18675
6050
32%
Ukraine
124 293
36237
29%
Kasachstan
51007
14245
28%
Tunesien
22 956
6364
28%
Russland
191270
51026
27%
Vietnam
84 301
22 922
27%
Türkei
1629 480
391001
24%
Mazedonien
65998
12436
19%
Serbien
179 048
31627
18%
Bosnien-Herzegowina
152444
19768
13%
Indien
48280
6064
13%
Kosovo
108797
13 476
12%
Thailand
56153
5600
10%
Kroatien
220199
15130
7%
Ausländer gesamt
6 753 621**
1188 411
17,6 %
um Vergleich:
Deutsche
75046379
5144 843
6,9%

1-5-1972 giải phóng Quảng trị

Tham khảo thêm về đại lộ kinh hoàng để nhìn cuộc chiến khốc liệt từ phía bên kia, liệu có phải là căn nguyên biến thành cổ Quảng trị thành túi bom 
Đại Lộ Kinh Hoàng 
 (Nicholas Ruggieri/Trích Chiến Sĩ Cộng Hòa, số 275 – 01/10/1973)

Chúng tôi xin được chạy đăng lại nguyên văn bài viết của ký giả Nicholas Ruggieri. Bài viết này được chuyển ngữ ra tiếng Việt và chạy đăng trong mục Tài Liệu của báo Chiến Sĩ Cộng Hòa số 275 ra ngày 01-10 -1973. Bài viết cho thấy sự tương phản trong nhận thức giữa Lê Xuân Thủy và Đặng Thùy Trâm khi đối diện với thực tế tại chiến trường miền Nam. Bài viết bắt đầu như sau:

Lần đầu tiên, những chi tiết về cuộc tàn sát dân chúng hồi vào tháng Tư khi họ đang trốn tránh cuộc xăm lăng của Cộng Sản tại Quảng Trị vào thời gian đó, đã được một lính Cộng Sản Bắc Việt từng mục kích và cho biết.

Câu chuyện này được một lính truyền tin quân đội CSBV 22 tuổi, kể lại. Anh cho biết chính cuộc tàn sát vô ích không nương tay đó sau này đã khiến anh quay về với chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Anh cũng xác nhận về nhiều chi tiết thuộc về câu chuyện mà hai sĩ quan Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ kể lại trước đây. Hai sĩ quan này từng ở trong khu vực tử thần đó.

Câu chuyện của viên cựu hạ sĩ quân đội Bắc Việt Lê Xuân Thủy kể, đã cho biết thêm những chi tiết sau đây:

1. Các người chỉ huy quân CSBV trong cuộc phục kích đó đã được biết trước về những gì họ sẽ làm.

2. Một số quân lính Bắc Việt tham dự cuộc phục kích đã được chỉ thị giết dân chúng.

3. Cuộc tấn công này kéo dài trong 5 ngày từ 29 – 4 đến 3 – 5/1972 chứ không phải 2 ngày như người ta cho biết trước đây.

Cựu Hạ sĩ Thủy đã trở về với chính phủ Việt Nam Cộng Hòa ngày 31/7/1972 thuộc tiểu đội truyền tin của Tiểu đoàn 4 Trung đoàn 2 Sư đoàn 324. Anh được giao công tác thiết lập liên lạc giữ bộ chỉ huy Tiểu đoàn lực lượng CSBV đang hoạt động trong khu vực Cầu Đài, gần quốc lộ 1, và đã chứng kiến hành động tàn sát xẩy ra trong khu vực đặc biệt của anh.

Dường như dân chạy loạn được phép di chuyển trên quốc lộ 1 theo hướng đi về Huế cho mãi tới chiều ngày 29/04, nhưng lính Cộng Sản Bắc Việt trong khu vực này đã bị cấp chỉ huy của họ khiển trách về việc cho phép những người này chạy thoát. Cấp chỉ huy của họ chỉ thị là từ ngày đó không cho phép bất cứ thứ gì di chuyển trên quốc lộ này.

Vì đường đi không có chướng ngại vật, nên cấp chỉ huy Cộng Sản Bắc Việt nổ súng vào bất cứ người nào và bất cứ thứ gì xuất hiện trên đường… Họ sử dụng tới súng máy và súng cối bắn tất cả đàn ông, đàn bà và trẻ em, bất kể họ đi bộ, đi xe đạp, trên xe vận tải hoặc xe tản thương, dù họ cũng có thể phân biệt được mục tiêu họ nhắm bắn là dân sự hay quân sự, theo lời hạ sĩ Thủy cho biết.

Có những trường hợp phụ nữ đi cách xa những người tỵ nạn khác và những nhóm không có đàn ông, nhưng sự phân biệt đó thực sự không được quân lính CSBV chú ý tới. Khi một vài binh lính Bắc Việt phản đối việc nổ súng bừa bãi đó thì cấp chỉ huy của họ đã cho biết là những người tỵ nạn đều được coi là “dân địch”.

Sau đây là lời hạ sĩ quân đội CSBV Lê Xuân Thủy kể:

- “Chúng tôi được lệnh nổ súng vào bất cứ người nào trốn về hướng Nam dọc theo con đường từ Quảng Trị tới Thừa Thiên. Tôi mục kích thấy nhiều xe bị bắn, đủ các loại xe, từ xe đạp tới xe thiết giáp đều bị quân Cộng Sản tấn công. Người chỉ huy trung đoàn đã ra lệnh như vậy. Chúng tôi được lệnh phải bắn tất cả những nam thanh niên, mặc dù họ đi bằng xe đạp hay đi bộ. Chúng tôi không được lệnh bắn phụ nữ đi riêng biệt. Tuy nhiên, môt xe dân sự chở đầy thường dân đã bị tấn công. Những người chỉ huy cho hay là nếu những người nào trốn thoát về Nam thì họ là về phía địch, vì thế họ đã bắn vào những người dân đó.

Cộng Sản cũng còn nổ súng vào những xe thiết giáp chở đầy thanh niên, binh lính và dân chúng. Viên chỉ huy tiểu đoàn ra lệnh bắn súng cối 60 ly và 82 ly vào những xe này bằng những loạt đạn dữ dội. Những súng cối 82 ly được đặt cách đó khoảng 200 thước và súng cối 60 ly được đặt cách mục tiêu khoảng 100 thước. Dân chúng đi thành từng nhóm, trong đó có cả đàn ông thì bị bắn những loạt súng máy.

Cộng Sản được lệnh bắn tất cả đàn ông đi trên đường tuy họ được lệnh không được bắn người già. Tuy nhiên khi những người trẻ đi lẫn trong đám người già thì tất cả đều bị bắn tiêu diệt. Sau khi bắn, quân Cộng Sản đi xét những xác chết và vơ vét của cải của nạn nhân và họ coi đó là chiến lợi phẩm. Tôi đã mục kích thấy nhiều đàn bà già cả và trẻ em chết gục tại đó.

Tôi thấy nhiều người bị thương chạy trốn vào hầm hố để tránh đạn pháo kích. Tôi không thể lưu ý đến họ vì tôi phải sửa chữa đường giây liên lạc. Có lệnh là tất cả những người bị thương đều phải ra khỏi hầm hố vì khu vực này được coi là khu vực quân sự, và không một người nào được phép ở trong đó, mặc dù những trận pháo kích bắn vào từ hai bên đường này.Vì vậy, tất cả dân chúng bắt buộc phải chạy đi nơi khác để tránh nạn, đồng thời bất cứ có binh sĩ nào trong số người này đều bị bắn tức khắc. Tôi đã chứng kiến 5 hoặc 6 người bị quân đội Bắc Việt giết như thế. Những người dân bị thương đều bị bỏ nằm lại dọc đường.

Chiến trận dọc quốc lộ Quảng Trị – Thừa Thiên đã kéo dài từ 7 giờ sáng 29/4 đến tối 3/5. Theo tôi nhớ lại thì ngày 30/4, một đoàn xe chạy trên quốc lộ này trong đó có một số thường dân đi xe hơi và một ít đi bằng xe Hồng Thập Tự. Đoàn xe này bị tấn công. Hôm sau lại một đoàn xe nữa gồm mấy chục chiếc cũng chạy tới và đoàn này cũng bị tấn công nữa. Mấy chiếc xe cứu thương dù có sơn dấu Hồng Thập Tự rõ ràng mà cũng bị bắn. Họ biết dấu Hồng Thập Tự là gì rồi, vì bên lính CSBV cũng có loại xe cứu thương có dấu Hồng Thập Tự như thế. Tôi cũng thấy có một số người nằm chết bên cạnh mấy chiếc xe đạp. Một số lính CSBV hoạt động trong vùng gần chỗ tôi ở đã bắn vào cả những người cưỡi xe đạp lẫn đi bộ.

Tối hôm đó, Cộng quân đã thu được một số chiến lợi phẩm quan trọng, trong đó có cả gạo của những người đã chết, súng, vải vóc, máy thu thanh, đồng hồ đeo tay… Lính CSBV tịch thu những thứ này không phải để để cho lính họ dùng, mà là để cho thượng cấp Trung đoàn Cộng Sản ấy… Họ tịch thu cả tiền, họ lột hết mọi thứ như nhẩn, vàng, bút máy, võng…”

Trả lời câu hỏi về nguyên nhân những vụ pháo kích bừa bãi như thế, hồi chánh viên này cho biết:

- Theo ý tôi, Cộng quân coi tất cả những người bỏ Quảng Trị chạy về phía Nam đều là những người thân chính phủ, mà như thế thì họ còn bị coi là những người chống Cộng và bị bắn, còn những người ở lại thị xã Quảng Trị thì bị Cộng quân cưỡng bách phải đi Vĩnh Linh.

Hồi chánh viên này cho biết là trong thời gian có những cuộc tấn công, anh ấy đã ở với một đại đội pháo binh có nhiệm vụ chọn lựa mục tiêu. Trạm tiền thám đặt tại một nơi cách quốc lộ 1500 thước, còn hai bên bờ quốc lộ đều có lính Cộng Sản phục kích, một bên cách đường 200 thước, một bên cách 400 trăm thước… Anh cho hay Cộng quân đã quét hàng tràng đại liên vào những xe đò chở đầy dân tỵ nạn. Khi có người hỏi phản ứng của anh ra sao khi thấy thường dân bị giết, anh đã đáp:

- Tôi buồn hết sức, điều đó đã làm tôi phải suy nghĩ rất nhiều. Người ta bảo tôi vào Nam chiến đấu chống Mỹ, nhưng khi tôi tới nơi, tôi lại thấy mình đang chống lại người Việt. Cuộc tấn công của chúng tôi nhắm cả người Việt dân sự lẫn quân sự.

- Khi anh tới quốc lộ, anh có thấy có xác trẻ em không?

- Có, chừng 10 em chết và nằm rải rác trên quốc lộ trong một quảng chừng một cây số!

- Anh thấy có bao nhiêu thi thể phụ nữ?

- Cũng chừng 10 xác, nhưng số bị thương thì rất nhiều. Họ ngồi dưới cái rãnh thoát nước hay trong bụi rậm.

- Anh có thấy nhiều người già bị chết hay bị thương không?

- Nhiều…

- Có nhiều người còn trẻ chết không?

- Có nhiều người còn ít tuổi đã chết.

- Họ vận áo thường dân hay quân phục?

- Họ vận đủ thứ quần áo, kể cả quân phục tác chiến của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Quần áo của họ đủ màu, xanh có, đỏ có…

- Theo nhận định của anh thì họ là thường dân hay quân nhân, họ là người quê hay thành thị?

- Theo ý tôi, họ là thanh niên đủ giai tầng xã hội…, thanh niên, học sinh không ở trong quân đội.

Anh nói thêm:

- Khi chúng tôi trở về đơn vị để dự cuộc kiểm thảo thì có nhiều người đã phàn nàn với cấp chỉ huy, họ không đồng ý. Bọn này nói thường dân ấy là một phần của số dân theo địch, và nếu để cho họ thoát thì sau đó họ sẽ cầm súng bắn lại chúng ta. Chúng ta được lệnh bắn bất cứ ai và chúng ta phải thi hành lệnh ấy.

- Có phải sự bắn giết thường dân như thế đã khiến cho anh quyết định hồi chánh?

- Điều tôi nhìn thấy làm cho tôi rất đau buồn. Thảm cảnh người Việt chiến đấu chống người Việt làm cho tôi thất vọng. Tôi muốn phản đối lời biện bạch của các cấp chỉ huy, và có lẽ điều này cũng góp phần thúc đẩy tôi quyết định hồi chánh.

- Anh có biết chính sách 10 điều dân vận của Mặt Trận Giải Phóng?

- Có! Trước khi chúng tôi vào miền Nam, chúng tôi được học tập chính sách đối xử với thương binh và tù binh địch, nhưng tôi nhận thấy chính sách ấy không được áp dụng.

- Có phải anh muốn nói sự khác biệt giữa lý thuyết với thực hành?

- Khác biệt rất nhiều. Trong khi chúng tôi còn ở đất Bắc, người ta bảo chúng tôi là phải đối xử tử tế với tù và hàng binh. Nhưng trên thực tế, những người như thế đã bị ngược đãi. Trong một vài trường hợp, có một số tù binh đã bị bắn ngay khi bị bắt… Khi đem vấn đề đó ra thảo luận, các cấp chỉ huy vẫn khăng khăng một mực là họ đã áp dụng đúng lý thuyết….!

Nicholas Ruggieri