Sự vô tâm của người tự kỷ


Sự vô tâm của người tự kỷ
Khả năng hiểu được suy nghĩ của chính mình và của người khác xuất hiện khá tự nhiên từ nhỏ. Tuy nhiên, theo ngày càng nhiều các nghiên cứu, trẻ tự kỉ gặp những khó khăn đặc biệt trong việc lý giải: các trạng thái tâm lí. Người ta giả định rằng những thiếu hụt này là do những bất thường trong phát triển vốn là đặc điểm của chứng rối loạn này. Ví dụ, khi trắc nghiệm về khả năng hiểu “niềm tin không trùng với thực tế”, trẻ tự kỉ làm sai nhiều hơn so với trẻ thường và kể cả những đứa trẻ tiếp thu kém tuổi thần kinh ít hơn. Đa số trẻ tự kỉ trả lời sai, chỉ một số ít trả lời đúng – khoảng 20-35 %. Đến phần khó hơn về hiểu niềm tin (gồm việc hiểu các niềm tin thứ cấp, hay niềm tin lồng trong niềm tin (ví dụ, Anne nghĩ rằng Sally nghĩ x) – thường là trẻ thường tầm 6 -7 tuổi đều trả lời đúng – nhiều trẻ tự kỷ ở độ tuổi vị thành niên vẫn trả lời sai. Có vẻ như trẻ tự kỷ hầu như không hiểu về niềm tin ở mức độ của trẻ thường 3-4 tuổi. Và có khiếm khuyết rõ rệt về khả năng hiểu về niềm tin ở mức độ của trẻ 6-7 tuổi. Rõ ràng là có gì đó không ổn trong quá trình trau dồi khả năng hiểu khái niệm niềm tin.
Sự thiếu hụt khả năng hiểu niềm tin của người khác ở người tự kỷ thể hiện rõ trong các trắc nghiệm về “lừa phỉnh”. Như đã nói ở trên, vì lừa phỉnh liên quan đến việc thao túng niềm tin, nên việc này cũng dể hiểu. Trong trò giấu đồng xu, một bài kiểm tra đơn giản về khái niệm “lừa phỉnh”, trẻ được yêu cầu giấu một đồng xu trong bàn tay này hoặc bàn tay kia, trẻ tự kỷ thường không biết giấu đi những gì có thể khiến người kia đoán được đồng xu giấu ở đâu. Ví dụ, chúng quên nắm tay không có đồng xu lại hoặc giấu ngay trước mặt người kia, hoặc chỉ cho người đó thấy đồng xu được giấu ở đâu trước khi họ đoán. Ngược lại, trẻ khiếm khuyết về nhận thức, và trẻ thường 3 tuổi lại rất ít mắc những lỗi kiểu này.
Vậy còn nhận thức của người tự kỷ về với các trạng thái tâm lí của người khác thì thế nào? Khi hỏi trẻ tự kỷ rằng nhân vật trong câu chuyện cảm thấy như thế nào khi anh ta được cho một thứ mà anh ta thích hoặc không thích, có vẻ chúng ít khiếm khuyết về phần này, so với trẻ có tuổi thần kinh gần bằng. Việc nhận biết khía cạnh đơn giản này của trạng thái cảm xúc có vẻ vẫn nằm trong khả năng của chúng. Tương tự, khi kiểm tra nhận thức của chúng về khả năng đặt mình vào góc nhìn của đối phương ở cả hai cấp độ, chúng có vẻ ít bị khiếm khuyết.
Một tập hợp những trạng thái tâm lí nữa là cảm xúc. Trong những nghiên cứu trước đó của mình, Hobson nhận thấy rằng trẻ tự kỷ tỏ ra tệ hơn hẳn so với các nhóm trẻ khác ở bài tập về nhận ra nét mặt. Một nghiên cứu khác tập trung không phải về việc nhận biết mà là phán đoán cảm xúc. Mục đích của những nghiên cứu này là để xem trẻ tự kỷ hiểu đến mức nào về nguyên nhân dẫn đến những cảm xúc – họ cảm nhận như thế nào, trong những bối cảnh nhất định. Như đã đề cập trước đó, trẻ thường tầm 3-4 tuổi có thể hiểu các trạng thái tâm lí là do ngoại cảnh gây ra (chuyện thuận lợi khiến người ta vui, khó chịu khiến người ta buồn) và ước muốn (thỏa ước muốn làm người ta vui và ước muốn không được đáp ứng làm người ta buồn). Tầm 4-6 tuổi, trẻ thường cũng hiểu được rằng niềm tin ảnh hưởng đến cảm xúc (ví dụ, nếu bạn nghĩ bạn sẽ có được những thứ mà bạn muốn, bạn sẽ cảm thấy vui, nếu bạn nghĩ bạn sẽ không có được những thứ đó, thì bạn cảm thấy buồn – cho dù thực tế bạn có thể đạt hoặc không đạt được nó).
Trẻ tự kỷ cũng có thể trả lời đúng về các trạng thái cảm xúc của nhân vật trong truyện dựa vào tình huống. Khả năng chúng dự đoán trạng thái cảm xúc của nhân vật khi biết ước muốn của họ cũng tương đương với những trẻ có khó khăn trong học tập dạng khác. Nhưng khả năng dự đoán cảm xúc căn cứ vào niềm tin lại kém hơn hẳn so với trẻ thường tầm 5 tuổi hoặc trẻ có khó khăn về học tập dạng khác. Có vẻ là những cảm xúc đơn giản thì người tự kỷ vẫn hiểu được, còn phức tạp hơn thì gặp nhiều khó khăn.
Kém khả năng trong việc nhận thức sự giả vờ cũng là một đặc điểm. Thông thường, trẻ độ 2 tuổi đã xuất hiện khả năng chơi giả vờ. Nhưng trẻ tự kỷ với tuổi thần kinh và ngôn ngữ trên 2 vẫn không thấy hoặc thấy rất hạn hữu khả năng này. Chúng cũng ít chơi giả vờ bột phát hơn hẳn so với các trẻ khuyết tật về khả năng học dạng khác.

VÍ DỤ TỪ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN

Sự vô tâm của người tự kỷ để lại hệ quả sâu rộng cho quá trình phát triển con người nhiều hơn những gì các nghiên cứu đã chỉ ra. Những khó khăn này sẽ còn kéo dài cho đến khi họ trưởng thành, sau đây là một số ví dụ:

Thiếu nhạy cảm đối với những cảm xúc của người khác

Federick, là một cậu bé 12 tuổi mắc chứng bệnh tự kỷ. Bố mẹ cậu rất lo lắng không biết làm thế nào để cậu có thể hòa nhập với các bạn khác khi vào trường cấp hai. Họ thật sự kinh ngạc khi biết ngay trong tuần học đầu tiên, con trai họ đã lại gần giáo viên chủ nhiệm trong giờ tập trung cả trường và nhận xét sao thầy có nhiều mụn thế.

Không biết cân nhắc xem người ta biết những gì rồi

Jeffrey, một thanh niên tự kỉ chức năng cao nắm giữ một trọng trách trong một công ty máy tính, lại không thể hiểu rằng những gì anh ta đã trải nghiệm có thể người khác chưa biết. Anh ta không thể hiểu được rằng trải nghiệm của mình khác của người khác, nên anh ấy cứ nhắc đến các sự việc đó mà không cho người khác thông tin về bối cảnh xảy ra, để đồng nghiệp và bạn bè anh ấy có thể hiểu được ngữ cảnh của nó khi tranh luận với anh ấy.

Thiếu khả năng thương thuyết với bạn thông qua việc đọc và phản hồi ý định của bạn

Samantha, một bé gái 10 tuổi bị chứng bệnh tự kỷ, đang học tại một trường thường, đã được cha mẹ chỉ bảo rất cẩn thận cách giới thiệu tên tuổi và địa chỉ của mình. Tin rằng đó là tất cả những gì mình cần để kết bạn, cô bé tiến đến nhóm bạn, trịnh trọng đọc tên và địa chỉ của mình, sau đó đánh bạn đứng gần nhất vì mãi không thấy ai nói lời mời cô bé nhập hội.

Thiếu khả năng luận ra mức độ quan tâm của đối phương từ lời nói

Robert, một cậu bé 12 tuổi, đang học tại một trường thường, luôn khiến bạn bè và thầy cô phát bực vì những màn độc thoại tẻ nhạt về dung tích xy lanh của xe Renault, cấu trúc của cầu Severn, và chứng bạch tạng. Cậu có thể nói tràng giang về các chủ đề mà cậu yêu thích mà không hề để ý đến người khác có quan tâm những điều mình nói hay không

Thiếu khả năng luận ra chủ ý của người nói

Trong giờ học mỹ thuật, David, 14 tuổi bị chứng bệnh tự kỷ, được thầy yêu cầu “sơn trẻ ở gần con”. Cậu làm đúng như lời của thầy, khiến bạn học rất bực.
Leo, một chàng trai trẻ làm việc trong văn phòng, cũng gặp rất nhiều khó khăn vì anh ta toàn hiểu lời nói theo từng câu từng chữ. Giả dụ có ai khiêu khích nói rằng “Cậu làm lại đi….!” thì cậu sẽ lọc cọc đi làm đúng như vậy, ngược hẳn ý của người nói.

Thiếu khả năng dự đoán người khác có thể suy nghĩ về một hành động

Joseph , khi còn ở độ tuổi thiếu niên, thường thết đãi người lạ bằng việc kể những chuyện rất cá nhân về mình, không nhận ra rằng nói chuyện với người khác về các chức năng cơ thể của một người, hoặc những tình cảm riêng tư trong cuộc sống gia đình là không phù hợp. Cậu cũng thường tự nhiên cởi quần cởi áo chỗ đông người khi trời nóng, mà không hề biêt ngượng.
Mặc dù khi lớn lên, có nhiều khó khăn cũng đã được cải thiện, cậu lại gặp rất nhiều khó khăn khác khi bắt đầu làm việc tại một công ty máy tính. Cậu không hề để tâm đến không gian riêng của mỗi người, thậm chí thường lởn vởn gần bàn làm việc của nhân viên nữ, hoặc dựa người vào họ khi đi thang máy hay xếp hàng. Sau một vài tuần, cậu bị sa thải vì tội quấy rối tình dục.

Thiếu khả năng nhìn ra những hiểu lầm

Michale, một thanh niên tự kỷ, vừa bị sa thải sau khi có xích mích với nhân viên giữ hành lí. Anh ta không hề cảm thấy hối hận sau khi đã dùng ô để đánh cô này “vì cô ta đã đưa nhầm vé cho tôi”. Vốn là người quen tỉ mỉ chi tiết, anh ta không thể hiểu được và thông cảm cho những nhầm lẫn của người khác. Mãi anh ta vẫn không thể hiểu được tại sao anh ta lại bị đuổi vì anh ta tin rằng đáng lí ra người bị đuổi việc phải là cô nhân viên giữ hành lí.

Không biết lừa phỉnh người khác cũng như không có ý niệm gì về lừa phỉnh

John, 25 tuổi bị chứng bệnh tự kỷ, làm trong một cửa hàng nữ trang. Vì anh ta nổi tiếng là người trung thực, nên được giao giữ chìa khóa két. Tuy nhiên, vì không có ý niệm gì về dối trá, anh đã bị một người bảo vệ ca đêm lợi dụng. Khi được yêu cầu đưa chìa khóa, John liền đưa ngày và khi tên bảo vệ tẩu tán cùng với những thứ trong két, John bị buộc tội tòng phạm. Mặc dù cuối cùng người ta bỏ cái án cho John khi hiểu ra vấn đề nhưng John không còn được dùng vào những vị trí cần lòng tin như vậy nữa.

Thiếu khả năng hiểu nguyên nhân ẩn sau hành động của người khác

David, 20 tuổi bị chứng bệnh tự kỷ, có trí thông minh bình thường, khả năng giao tiếp xã hội rất tệ, nhưng vẫn được tuyển dụng do có chú giới thiệu. Biết những hạn chế của David, người chú này chủ động xin cho David làm việc ở một vị trí không cần phải tiếp xúc nhiều người. Thay vì cảm ơn người chú tốt bụng, David lại rất giận dữ vì nghĩ rằng chú mình không muốn cho mình được làm ở vị trí quản lí công ty. Anh ta bỏ việc chỉ mấy ngày sau đó, và vô cùng tức giận người đã rất cố gắng giúp đỡ anh ta.

Thiếu khả năng hiểu “những luật bất thành văn” hoặc quy ước ngầm

Jan, 25 tuổi, đã dành hàng tháng tham gia các lớp học huấn luyện kỹ năng xã hội và các kĩ năng khác để cải thiện kỹ năng đối thoại và xã hội khác. Anh ta gặp khó khăn trong việc đưa ra một nhận xét tức thì, và nhóm trưởng đã phải nỗ lực hết mình để giúp anh phát triển những mánh giao tiếp, tìm chủ để các bên cùng quan tâm, hoặc cảm thán vẻ bề ngoài của người khác. Sau buổi đầu tiên học nhảy, Jan thực sự rất tự hào vì đã bắt chuyện được với một cô gái suốt cả buổi tối. Thế cậu đã nói gì với cô ấy? Tớ nói rằng cô ấy rất đẹp và tớ rất thích bộ váy màu đỏ cô ấy đang mặc vì nó cùng tông với màu lợi của cô ấy.
Những ví dụ về những tai nạn trong việc đọc hiểu tâm ý của người khác nêu trên có thể dẫn đến không biết bao vấn đề, nhưng cũng đủ để ta thấy người tự kỷ thường không hiểu hành động và lời nói của người khác. Những khó khăn này có thể khiến họ bị xã hội từ chối, cô lập, hiểu lầm, và thậm chí lợi dụng.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Cảm ơn những nhận xét đóng góp chân tình