Cậu học sinh 15 tuổi thách thức Bắc Kinh về môn học tẩy não

 
Đi guốc vào trong bụng chúng mày


Hoàng Chi Phong
Hoàng Chi Phong
DR

Thụy My
Thông tín viên nhật báo Le Monde tại Hồng Kông hôm nay trong bài viết mang tựa đề « Hoàng Chi Phong, cậu học sinh thách thức Bắc Kinh » đã nói về một sự kiện chưa từng diễn ra tại đây. Phong trào do cậu bé 15 tuổi này lãnh đạo đã khiến chính quyền Hồng Kông phải lùi bước trước ý định áp đặt chương trình « giáo dục lòng yêu nước » của Trung Quốc.

Bài báo mô tả cậu học sinh với cặp kính cận có bề ngoài cũng bình thường như các thiếu niên Hồng Kông cùng độ tuổi 15 với cậu. Nhưng bài diễn văn của Hoàng Chi Phong (Joshua Wong Chifung) với giọng điệu vừa khẩn thiết, lo ngại nhưng vẫn cụ thể, nhắm thẳng vào mục đích, nhất là trước một rừng micro : cậu bé giải thích vì sao phải bằng mọi giá phản đối việc áp đặt « chương trình giáo dục đạo đức ». Đây là môn học mới mà Hoàng Chi Phong khẳng định là nhằm tẩy não, mà chính quyền Hồng Kông định buộc học sinh trung và tiểu học phải theo từ nay cho đến năm 2016.
Cậu bé 15 tuổi đã chiến thắng ! Sau nhiều tháng do dự, một cuộc biểu tình khổng lồ với gần 100.000 người hôm 29/7, nhiều vụ tuyệt thực trong đó có cả các học sinh tham gia, 10 ngày cắm dùi trước trụ sở chính quyền hồi tháng Chín, ông Lương Chấn Anh, lãnh đạo đặc khu Hồng Kông hôm 7/10 cuối cùng đành phải thông báo cho ngưng lại chương trình này.
Muốn đẹp lòng Bắc Kinh, nhưng chính quyền Hồng Kông đã thất bại
Theo Le Monde, đây là thất bại cay đắng của tân chính quyền Hồng Kông, vốn hy vọng lấy lòng Bắc Kinh qua việc đưa môn giáo dục ái quốc của Trung Quốc vào giảng dạy. Đây cũng là một thắng lợi vang dội của các thanh thiếu niên thuộc phong trào Scholarism mà Hoàng Chi Phong cùng với một người bạn đã thành lập vào giữa năm 2011. Scholarism là động cơ của phe phản đối chương trình này, đã lan rộng suốt trong mùa hè 2012 khiến chính quyền phải lùi bước.
Mục đích chính thức của môn « giáo dục ái quốc » là « tăng cường lòng yêu nước và tình cảm thuộc về đất mẹ Trung Quốc », tại vùng đất từng là thuộc địa Anh trong 150 năm. Chương trình học gồm chào cờ Trung Quốc, các bài học lịch sử giảng giải tính ưu việt của chính quyền độc đảng, và các buổi trẻ em tiểu học phải đứng hát « Em vui sướng được là người Trung Quốc ». Những nội dung này làm cho bất cứ người Hồng Kông nào từng được giáo dục theo kiểu phương Tây với tinh thần phân tích và phê bình cũng phải nổi giận, mà trong số những người phẫn nộ nhất có cậu bé Hoàng Chi Phong.
Sinh vào tháng 9/1996 trong một gia đình Anh giáo trung lưu, Hoàng Chi Phong là con trai duy nhất, cha mẹ cậu là các nhà đấu tranh dân chủ, ủng hộ đảng đối lập ôn hòa Civic Party. Đối với các bạn học, thì cậu cũng bình thường như bao nhiêu bạn khác trong lớp. Hoàng Chi Phong hết sức lịch sự từ chối trả lời phỏng vấn của Le Monde với lý do bận làm bài và « nói tiếng Anh dở ». Theo cậu, « Nếu một phong trào quần chúng bị hướng về phía tôn sùng cá nhân lãnh đạo, thì đó là vấn đề rất đáng ngại ».
Cho dù còn rất trẻ, nhưng Hoàng Chi Phong đã có nhiều kinh nghiệm đấu tranh. Năm 12 tuổi, cậu theo dõi rất kỹ phong trào phản đối việc xây dựng một xa lộ nối Trung Quốc với Hồng Kông, khiến nhiều người dân phải di dời, và phá hủy nhiều làng mạc, đồng ruộng. Đến năm 2010, là vụ năm dân biểu liên tiếp từ chức, đòi hỏi một cuộc trưng cầu dân ý mini. Cậu bé có thói quen theo cha mẹ đến dự buổi lễ tưởng niệm vụ thảm sát Thiên An Môn hàng năm được tổ chức vào ngày 4/6 tại công viên Victoria.
Hoàng Chi Phong tự xây dựng nên một mạng lưới những người cùng chí hướng đầy kinh nghiệm. Tháng 6/2011, cùng một người bạn lớn tuổi hơn, cậu mở một trang Facebook và khai sinh phong trào Scholarism. Lập tức tình báo Trung Quốc đã nghe lén điện thoại của cậu bé. Heidi Ma, phát ngôn viên của Scholarism, lớn hơn cậu bé chủ tịch hai tuổi, cho biết : « Hoàng Chi Phong nhận thấy có tiếng vọng bất thường trong điện thoại, và tài khoản của Scholarism trên mạng Vi Bác bị phong tỏa ».
Cho dù có được sự ủng hộ của các tổ chức phụ huynh, các nghiệp đoàn giáo viên và các đảng đối lập, nhưng Heidi Ma khẳng định phong trào vẫn giữ được tính độc lập. Scholarism đã tạo được ảnh hưởng, với nhận định việc tạm ngưng chương trình « giáo dục ái quốc » chưa đủ, mà còn phải hủy bỏ hoàn toàn dự án này.
Le Monde nhận xét, đây là lần đầu tiên từ hơn một chục năm qua, mà những yêu sách của xã hội công dân đạt được mục đích. Scholarism cũng cảnh báo công chúng về các chuyến đi Trung Quốc tham quan văn hóa cho học sinh, được Bộ Giáo dục Hồng Kông tài trợ một phần lớn, rất giống như những cuộc hành hương Mao-ít. Về phần Hoàng Chi Phong, cậu hứa hẹn vẫn cảnh giác về vụ « tẩy não », nhưng đang lao vào một nhiệm vụ mới : « Mở rộng phong trào về sự thức tỉnh của xã hội dân sự ».

Lạ lùng vùng đất có căn bệnh mở hộp sọ

Một chứng bệnh không có trong y văn hiện đại với những triệu chứng khủng khiếp như đau đầu, buồn nôn, đường rãnh ở khớp sọ từ từ mở. Một chứng bệnh tây y không có cách chữa trị mà chỉ trông chờ vào các bài thuốc nam gia truyền.
Đã từng đi vùng cao nhiều, chứng kiến vô số bệnh lạ nhưng có lẽ lạ nhất là căn bệnh mang tên mở khóa đầu. Lạ ngay từ cái tên đặc chất dân gian bởi nó không hề có trong y văn hiện đại.

Lạ bởi cơ chế dị thường được giải thích nôm na rằng xương sọ bình thường có những rãnh răng cưa liền khít nhưng khi bị bệnh cái rãnh đó như một cái khóa “phéc mơ tuya” sẽ mở ra. Người mắc chứng bệnh này sẽ bị đau đầu khủng khiếp, buồn nôn, không ăn, không uống và tử vong nhanh chóng.

Mở khóa đầu thường thấy ở một số tỉnh như Quảng Ninh, Cao Bằng nhưng mật độ dày đặc nhất phải nói đến quanh các xã vùng lòng hồ Cấm Sơn (Lục Ngạn, Bắc Giang).

Bảy đứa trẻ mắc bệnh mở khóa đầu 

Ông Tô Thanh Dũng, nguyên Trạm trưởng Trạm y tế xã Hộ Đáp, có thâm niên công tác từ 1984-2008, nói về bệnh mở khóa đầu như sau: “Bệnh này rất phổ biến ở xã Hộ Đáp, xưa có lác đác, hay gặp nhiều nhất từ 20 năm trở lại đây, thường bị trên trẻ sơ sinh. Trẻ sinh vào mùa đông tỉ lệ mắc khoảng 60%, mùa xuân 50%, mùa hè 40%...

Mở khóa đầu có những biểu hiện điển hình như đau đầu, nôn mửa, bỏ bú, đường nứt từ đỉnh đầu bị mở ra, đặt ngón tay vào liền lõm xuống (không tính đến thóp mềm mà trẻ em nào cũng có - PV). Có trẻ bị mở từ đỉnh đầu đến gáy. Có trẻ lại mở theo hình chữ thập đến tận mang tai. Đứa nào mở dài qua trán, xuống dưới lông mày là khó cứu nổi.

Trẻ mắc bệnh mở khóa đầu nếu không chữa kịp thời sẽ bỏ bú và chết đói bởi dù có luồn ống xông xuống mũi đổ sữa vào, dùng xi lanh bơm mà khi rút xông ra, chúng đau vặn mình cái là nôn hết. Tỉ lệ người Kinh bị nhiều hơn người Nùng, hay gặp ở các xóm Héo A , Héo Ba, Cái Cặn 1, Cái Cặn 2, Đèo Trang”.

Con anh Nguyễn Văn Hòa ở thôn Héo A trước đây có những biểu hiện điển hình của bệnh mở khóa đầu, bế đi viện người ta bảo có chồng cả gang tiền may ra cứu nổi. Lúc bệnh viện trả về, có bác sĩ còn khuyên anh Hòa rằng: “Mang về, dọc đường vùi chỗ nào thì vùi chứ không thể sống sót”. Bà nội ôm cháu về nhìn đứa bé quắt queo, thoi thóp như con mèo hen khiến cả nhà, cả họ đều nhếu nháo khóc.

Ông Tô Thanh Bảo, vì mắc mở khóa đầu không chữa kịp thời nên mù một mắt 
Một trường hợp khác gần nhà trưởng thôn là ông Lại Văn Hà có 4 cháu nội thì cả 4 đều mắc mở khóa đầu. Lại Thị Hạnh học lớp 3, Lại Trà My lớp 1, Lại Vũ Duy và Lại Mạnh Hùng đều 3 tháng tuổi trong đó Lại Mạnh Hùng bị mở nặng nhất theo hình chữ thập, bỏ bú 1 ngày. Thấy con bú mẹ bị nôn người nhà hốt hả đi mua sữa ngoài về cho ăn cháu cũng nôn ra hết. Cả bốn đứa cháu ông Hà đều được bà Nông Thị Mua lấy thuốc và chữa khỏi.

Tình cờ bà Nông Thị Mua, người cùng xóm, đi lùa trâu qua, gặp cảnh đó thương tình soi đèn đi lấy thuốc ở bờ ruộng. Được một nhúm nhỏ chỉ bằng cái mai con cua, bà giã nát ra, đắp theo vệt mở của đứa con anh Hòa (tuyệt đối không được đắp vào thóp kẻo bị câm -PV).

Đắp một lúc, đứa bé đã biết ngậm vú mẹ, đắp vài ngày nó đã khỏi. Bác sĩ năm nào lúc gặp lại anh Hòa hỏi: “Thằng bé nhà anh lúc trước giờ còn hay mất?” Anh tủm tỉm mà rằng: “Nó nghịch như giặc ấy”. Khiến cho vị bác sĩ được phen mắt tròn mắt dẹt trước tài nghệ của những bà lang miệt vườn.

Ở thôn Héo A, hầu như nhà nào cũng có con hay cháu bị mắc bệnh mở khóa đầu. Hai đứa con của anh Lại Văn Kiểm, trưởng thôn, cũng thế. Lại Văn Kiên năm nay 4 tuổi, hồi mới đẻ bị mở khóa từ đỉnh đầu đến trán, còn thằng thứ hai mới sinh được hơn 1 tháng tuổi, chưa kịp đặt tên, bị nặng hơn, mở một đường từ giáp chân mày đến gáy.

Lúc chị Chín đẻ thằng thứ hai ở Bệnh viện Lục Ngạn, nó không chịu bú, chỉ khóc ngằn ngặt. Thằng bé về sau được bà Nông Thị Mua đắp thuốc cho một buổi đã biết ăn, đắp 5 ngày liên tiếp đã khỏi hẳn. Lúc tôi đến, chị Chín miết nhẹ tay trên đầu con chỉ cho đường mở khóa là một cái rãnh mềm mềm chạy dọc và bảo: “Vết này phải ba bốn năm mới liền hẳn xương”.

Ông Lại Văn Cống 54 tuổi cũng bị mở khóa đầu 

Tưởng bệnh chỉ mắc trên trẻ sơ sinh, khó hiểu là với những người lớn, xương sọ đã rắn chắc, định hình rồi nhưng cũng một ngày bỗng nhiên…mở khóa. Ông Lại Văn Cống, 54 tuổi ở thôn Héo A giữa năm ngoái tự nhiên sinh đau đầu.

Bên ngoài sốt hầm hập mà trong người ông như có băng giá tái tê. Ra trạm xá mua thuốc giảm đau Paracetamol uống chẳng thấy đỡ. Đến bữa ăn vào bao nhiêu liền nôn ra bấy nhiêu khiến ông Cống sút đến dăm ba cân trong vòng một vài ngày.

Ông mô tả trạng thái khốn khổ của mình như sau: “Đau đâu, buốt nhức đấy! Mắt tôi cứ díp lại, phải lấy hai bàn tay ấn chặt vào chỗ nứt nhưng cũng chỉ đỡ được một tí rồi lại đau như cũ”.

Dùng thuốc tây mãi không đỡ, người ta mới chợt nghĩ đến bệnh mở khóa đầu. Chính vợ ông là bà Nguyễn Thị Dịp đã lấy tay lần sờ kiểm tra rồi giật mình vì đầu chồng mình bỗng nhiên có một kẽ nứt chạy dưới lớp da nhun nhũn.

Hốt quá, bà Dịp vội vã đi lấy thuốc, giã nát, buộc dịt vào đầu chồng. Lạ thay, sáng đắp, chiều ông đã biết cầm bát và cơm. Đầu cứ nhẹ dần, nhẹ dần, cơn đau càng ngày càng lùi xa. Sau khi đắp thuốc 3 ngày ông Cống đã khỏi hẳn, mỗi bữa ăn được 3 lưng bát chẳng bù cho khi trước một ngày không nổi một bát, chỉ uống nước đường cầm hơi mà vẫn bị nôn.

Ông Tô Thanh Dũng chỉ đường mở khóa đầu 

Một trường hợp khác, ông Tô Văn Bảo 79 tuổi ở xóm Héo A, nguyên là một y tá già về nghỉ hưu. 13 năm trước bị đau đầu, ông Bảo cứ chủ quan nghĩ là người già không bị mở khóa đầu nên không đắp thuốc.

Sau đau quá, đau đến vỡ đầu, đau đến không nằm được mà cứ nửa nằm, nửa ngồi, con ông là anh Tô Văn Đang mới sờ lên đầu bố. Cái đầu nóng như chõ đang hông xôi. Sờ nắn một hồi anh Đang thấy ngón tay mình lọt xuống một cái rãnh hệt như khe hở ở bàn tay, mở theo hình chữ thập mới bảo: “Bố bị mở khóa đầu rồi”.

Vợ ông Bảo là bà Lại Thị Lụa đi lấy lá thuốc về đắp ba đợt cho chồng nhưng vì đắp muộn, bệnh đã lây sang mắt. Người nhà đưa ông xuống dưới bệnh viện Bắc Giang khám, được chẩn đoán mắc viêm tủy sống mắt, biến chứng hỏng mất mắt phải.

Cao tuổi còn hơn cả ông Bảo là mẹ của chị Tô Thị Kết ở Héo A mắc lúc hơn 80 tuổi, với chiều mở dọc đầu được bà Mè Thị Lập chữa khỏi. Theo một số người già trong vùng bảo, có loại mở khóa 24 tiếng nếu lấy thuốc kịp trong 24 giờ là sống, có loại mở khóa 48 tiếng, lấy thuốc muộn sau hai ngày là sinh co giật, biến chứng nguy hiểm. Về cách giải cũng có nhiều bài thuốc giữ khóa lưu truyền trong dân gian, nguyên liệu, phương pháp có thể khác nhau nhưng cùng chung một tác dụng.

Cách đơn giản phân biệt cảm lạnh và cúm

Cảm lạnh là một bệnh về đường hô hấp nhẹ hơn cúm. Hai bệnh đều có những biểu hiện khá giống nhau như: hắt hơi, ho, đau họng, sốt...  Cúm nghiêm trọng hơn nhiều so với cảm lạnh/ Phân biệt bệnh cúm và cảm/ Bé bị cúm hay cảm lạnh

Với cảm lạnh, dấu hiệu đầu tiên thường là đau họng, có thể biến mất sau 1-2 ngày. Sau đó là các biểu hiện ở mũi như: chảy nước mũi, tắc mũi, cộng với ho vào ngày thứ 4 và 5 của bệnh. Người lớn thường không bị sốt nhưng trẻ nhỏ thì có thể bị sốt nhẹ. Trong vài ngày đầu, bạn sẽ thấy chảy nước mũi trong nhiều, sau đó thì nước mũi đặc lại. Đây là chuyện thông thường và điều này không có nghĩa là bạn đã bị nhiễm khuẩn do vi khuẩn.
Bệnh thường chỉ kéo trong khoảng 1 tuần. Trong 3 ngày đầu tiên bạn có thể lây bệnh cho người khác vì thế hãy ở nhà và nghỉ ngơi. Nếu bệnh không cải thiện sau một tuần, thì có thể là nguyên nhân gây bệnh là vi khuẩn, khi đó thì bạn cần uống thuốc kháng sinh.
Ảnh: P.N.
Trong khi đó, những biểu hiện của bệnh cúm thường nặng hơn là cảm lạnh và diễn tiến nhanh. Biểu hiện gồm: đau họng, sốt, đau đầu, đau nhức và mỏi cơ, ho... Ngoài ra, trường hợp bị cúm H1N1 đại dịch có thể có thêm biểu hiện buồn nôn và nôn.
Phần lớn những biểu hiện khó chịu này sẽ bớt trong 2-5 ngày, tuy nhiên không phải trường hợp nào cũng khỏi bệnh trong 1 tuần. Biến chứng thường gặp của bệnh là viêm phổi, đặc biệt ở trẻ, người già hoặc người có bệnh phổi, tim. Nếu bạn thấy khó thở hoặc sốt trở lại sau khi đã đỡ 1 hoặc 2 ngày thì hãy đến gặp bác sĩ.
Giống như virus gây cảm lạnh, virus cúm cũng đi vào cơ thể qua các màng nhày ở ở mũi, mắt và miệng. Mỗi lần bạn chạm tay lên một vùng này đồng nghĩa với việc bạn đang tự truyền virus cho mình. Vì thế, điều quan trọng là bạn hãy rửa tay sạch sẽ để ngừa bệnh cúm và cảm lạnh.

Phân biệt cúm và cảm lạnh:

Biểu hiện Cảm lạnh Cúm
Sốt Đôi khi, thường nhẹ Thông thường, sốt cao hơn 37,8-38,9 độ C, đặc biệt ở trẻ nhỏ, kéo dài trong 3-4 ngày
Đau đầu Thỉnh thoảng Hay gặp
Đau nhức người Nhẹ Hay gặp, thường nặng hơn
Mệt mỏi, yếu Đôi khi Thông thường, có thể kéo dài 2-3 tuần
Kiệt sức Không Thông thường, ngay từ khi bắt đầu bệnh
Nghẹt mũi Phổ biến Đôi khi
Hắt hơi Thông thường Đôi khi
Đau họng Phổ biến Đôi khi
Ho, khó chịu ở ngực Nhẹ đến trung bình Phổ biến, có thể trở nặng hơn
Biến chứng Nghẹt mũi, viêm tai giữa Viêm xoang, viêm phế quản, viêm phổi, thậm chí nguy hiểm tính mạng
Phòng ngừa Rửa tay thường xuyên, tránh tiếp xúc với người đang bị cảm lạnh Rửa tay thường xuyên, tránh tiếp xúc gần với người bị cúm, tiêm ngừa cúm định kỳ hàng năm.

Khi nào thì bạn nên đến gặp bác sĩ:

- Sốt liên tục: Đây có thể là dấu hiệu của bệnh viêm nhiễm khác.
- Đau khi nuốt: Dù đau họng khi bị cảm lạnh hoặc cúm có thể khiến bạn không thoải mái khi nuốt. Tuy nhiên khi bạn thấy đau nặng hơn nghĩa là họng bạn bị viêm.
- Ho liên tục: Khi cơn ho không thuyên giảm sau 2 hoặc 3 tuần thì bạn có thể bị viêm tiểu phế quản và bạn cần thuốc kháng sinh. Viêm xoang cũng có thể khiến bạn ho dai dẳng.
- Đau đầu và tắc mũi không khỏi: Nếu bạn bị đau quanh mắt và mặt, tiếp tục chảy nước mũi sau một tuần thì có thể bạn bị biến chứng viêm xoang và bạn có thể cần thuốc kháng sinh. Mặc dù phần lớn các trường hợp viêm xoang không cần dùng thuốc kháng sinh.
Trong một số trường hợp bạn cần đến bệnh viện ngay. Với người lớn đó là khi có các biểu hiện như: đau ngực, đầu dữ dội, khó thở, chóng mặt, liên tục nôn. Với trẻ nhỏ thì bạn cần lưu ý khi trẻ khó thở hoặc thở nhanh, da chuyển màu hơi tái, không uống đủ nước, không tương tác bình thường, quấy khóc, khó chịu, các triệu chứng được cải thiện sau đó đột nhiên xấu đi, sốt kèm theo nổi ban.

4 kiểu phụ huynh làm thui chột khả năng của con

Muốn khơi dậy và phát triển tiềm năng của con, bạn đừng bao giờ rơi vào mẫu phụ huynh tiêu cực, đòi hỏi sự hoàn hảo, chiều con vô điều kiện hay quá coi trọng vật chất.

Theo thạc sỹ tâm lý Trương Thanh Chí, giảng viên trường ĐH Sư phạm Thể dục Thể thao TP HCM, người có nhiều năm làm chuyên gia tư vấn học tập tại tổng đài Bưu điện 1088 TP HCM, đây chính là 4 kiểu phụ huỵnh điển hình làm thui chột tài năng của con cái.

Phụ huynh tiêu cực

Những bậc phụ huynh này không bao giờ dám khen con mình. Kể cả khi đứa trẻ được những người khác khen ngợi thì bố mẹ cũng sẵn sàng phủ nhận điều đó. “Con anh chị được vào đội tuyển đi thi học giỏi toán thành phố à? Cháu giỏi quá nhỉ” “Giỏi gì đâu”. Đôi khi cha mẹ nói xấu con mình chỉ để lấy lòng người đối thoại. Khi con khoe: “Con sẽ cố gắng thi đỗ trường cấp ba Lê Hồng Phong”, mẫu phụ huynh này sẽ phủ nhận luôn: “Học kém như con thì đỗ cấp ba là may lắm rồi, làm sao dám mơ đến Lê Hồng Phong”. Cha mẹ vô tư quen với kiểu chê bai con, đôi khi nghĩ đó là chiêu khích tướng, nhưng thường xuyên đánh giá con thấp thì chiêu khích tướng sẽ phản tác dụng. Cha mẹ tiêu cực sẽ khiến con cái cũng có cái nhìn tiêu cực và nó luôn nghĩ rằng mình không bao giờ đủ khả năng làm tốt một việc gì. Từ đó, con trẻ khi làm bất kỳ việc gì đều có tâm lý nặng nề, bi quan, yếm thế nên rất khó để thành công.

Phụ huynh đòi hỏi sự hoàn hảo

Kể cả khi con cái thành công, đạt thành tích học tập tốt… thì những bậc cha mẹ này cũng không thấy hài lòng. Với họ, con cái lúc nào cũng phải là số một, không được phép thua kém ai. Ông Thanh Chí từng phải dỗ một đứa trẻ hàng xóm khi nó sang nhà ông trốn bố mẹ vì sợ bị đánh đòn bởi chỉ đạt điểm 8 môn toán ở lớp.
Khi cha mẹ đòi hỏi cao quá, con cái sẽ phải sống cùng áp lực - Ảnh: Blogspot
Khi cha mẹ đòi hỏi cao quá, con cái sẽ phải sống cùng áp lực - Ảnh: Blogspot
Con của những phụ huynh đòi hỏi sự hoàn hảo luôn sống trong áp lực nặng nề phải phấn đấu đến bậc cao nhất. Thực tế cho thấy khi sự đòi hỏi của cha mẹ vượt quá khả năng của trẻ, nhiều trẻ đã mắc chứng trầm cảm, có trẻ thì nói dối. Vì mải tìm cách lừa dối để cha mẹ hài lòng, chúng càng không có thời gian và tâm trí để phấn đấu.

Phụ huynh chiều con vô điều kiện

Không cần biết yêu cầu của con cái có vô lý hay không, chỉ cần con muốn là bố mẹ sẵn sàng đáp ứng. Khi mà con trẻ biết rằng dù thế nào nó cũng được bố mẹ cung phụng thì nó đâu cần bỏ công sức phấn đấu.

Phụ huynh coi trọng vật chất

Những vị phụ huynh này luôn nghĩ rằng tiền bạc có thể giải quyết được mọi vấn đề. Con lười học, học kém thay vì tìm cách giúp con học chăm học, học tốt hơn thì những vị phụ huynh sẵn sàng mang phong bì đến thăm thầy cô. Bất kỳ vấn đề gì của con cũng được những phụ huynh này can thiệp bằng tiền bạc. Chứng kiến quan điểm đó của cha mẹ, những đứa trẻ này sẽ đương nhiên nghĩ rằng chúng chẳng cần phải cố gắng gì, chỉ cần mang túi tiền của cha mẹ ra là có thể đạt được mục đích.

Tinh thần tự học của học sinh, sinh viên Việt Nam


 Chưa bao giờ trong lịch sử, nền giáo dục của Việt Nam xuống cấp trầm trọng như hiện nay. Một hệ thống mấy trăm đại học, cao đẳng, với chất lượng thấp, bên cạnh một hệ thống dạy nghề yếu, trên nền một hệ thống giáo dục phổ thông cũ kỹ, lạc hậu, hơn hai thập kỷ nay vẫn loay hoay triền miên với những thí nghiệm tốn kém mà không mấy hiệu quả.
Những con số “đáng sợ” sau là minh chứng cho những bất cập của Giáo dục Đào tạo Việt Nam:

Hơn 50% SV được khảo sát không thật tự tin vào các năng lực/ khả năng học của mình.

Hơn 40% cho rằng mình không có năng lực tự học.

Gần 70% SV cho rằng mình không có năng lực tự nghiên cứu.

Gần 55% SV được hỏi cho rằng mình không thực sự hứng thú học tập.

Ảnh minh họa. (Nguồn Internet)

Vậy mà chúng ta vẫn tự hào rằng có hơn 955 dân số biết chữ, chúng ta phổ cập giáo dục tiểu học, mọi trẻ em đều được đến trường. Họ đâu biết rằng, điều nguy hiểm nhất hiện nay là tinh thần tự học, ham học hỏi, tìm tòi của học sinh ở khắp nơi trên đất nước đang bị 'thủ tiêu'.

Phần lớn học sinh đi học không còn vì sự thích thú muốn tìm hiểu cái mới nữa, chúng đi học chỉ để được gặp gỡ bạn bè, hoặc bị cha mẹ ép buộc. Chương trình học, sách giáo khoa quá nặng nề, phần lớn đều là lý thuyết, cứng nhắc, thậm chí là gò bó, ép buộc và dối trá. Trong môn Ngữ Văn cấp 3, học sinh được học về cái hay của những bài văn qua miệng của cô giáo, học sinh buộc phải công nhận nó hay trong bài kiểm tra, cần phải chỉ ra đúng những điểm hay cô giáo đã chỉ mặc dù có đọc cả trăm lần đi nữa chúng vẫn chẳng thấy có tí cảm xúc hay tí sự hay nào.

Học sinh được học văn như những con vẹt chăm chỉ lặp lại lời kẻ nuôi, không chút sáng tạo, còn buộc phải làm khác với những gì mình nghĩ nếu muốn có điểm. Và trên hết những đứa trẻ đó không có niềm vui trong việc học của mình, chúng không còn khát khao tìm kiếm cái mới nữa, bởi chúng được dạy chỉ để lặp lại những thứ mà chúng đã chán ngán. Nhưng chưa hết, đáng buồn hơn nữa, những thứ chán ngán đó lại chẳng giúp ích tí gì trong cuộc sống của chúng. Chúng học văn từ lớp 2 lên lớp 12, mà chẳng thể cảm nhận được cái đẹp của một bài văn. Chúng học toán, lý, hóa, chẳng làm gì ngoài việc đi thi một kì thi duy nhất.

Hẳn sẽ có những người sẽ ngụy biện rằng, chương trình học phổ thông có mục đích chính là rèn luyện tư duy. Nhưng cái mục đích đó có lẽ đã thất bại thảm hại ở nước ta, sau ba năm học cấp 3 ở một trường giỏi của cả nước, tôi nhận thấy có một bộ phận học sinh ở đây hầu như không tư duy gì trong việc học của mình.

Rất nhiều cuộc tranh luận với câu cãi ngô nghê: “Mày làm sai rồi, thầy tao dạy làm như thế này mới đúng!”. Chúng không còn cái tôi nữa, không còn chính kiến, không còn sự tự tư duy, chúng làm được bài chỉ nhờ gặp đúng dạng đã học thuộc dạng bài và copy y hệt, nếu khéo léo sửa một vài chỗ nhỏ thì các bạn đó đều bó tay. Đó là ở trường giỏi của toàn quốc, vậy còn những trường khác, còn mặt bằng chung của cả nước thì sao đây?

Dẫu vẫn biết nền giáo dục hiện nay có quá nhiều vấn đề khiến dư luận xã hội bức xúc, nhưng dù sao cũng vẫn phải sửa, sửa càng nhanh càng tốt, mà trước hết cần phải hướng cho giới trẻ, tức các em học sinh hiện nay biết làm thế nào cho việc học trở nên thú vị và có ích.

Vậy làm thế nào để việc học thú vị và có ích hơn. Việc này khó không? Khó! Nhưng may thay nó lại ít liên quan đến những thứ người khác muốn dạy cho ta mà là những thứ ta muốn tự học, tự tìm tòi. Tự học tức là tự chủ động, tự hành động trong việc học. Nếu từ việc bị dạy các bạn chuyển sang tự học thì đó sẽ là một quyết định lớn lao trong cuộc đời bạn, nó mở ra vô vàn những điều vui thích và tốt đẹp. Ở đây tôi không muốn đưa ra những tâm gương về tự học. Tôi chỉ muốn nói rõ tại sao tôi cho rằng tự học, tự chủ động trong việc họ lại đem lại ích lợi và cả sự thích thú.

Ta bắt đầu tự học, thứ đầu tiên ta nhận được sẽ là sự tự do, thoát khỏi sự gò bó, ép buộc của môi trường giáo dục hiện nay và tìm cho mình một khu vực mới, một địa hạt rộng mở mà nơi đó không có ai đủ sức trói buộc chúng ta nữa. Chúng ta thỏa sức tìm tòi, học hỏi thể hiện chính kiến, nhận định của mình từ đó ta thấy được sự thích thú ẩn dấu trong từng tri thức mới. Và hơn cả thế, mỗi tri thức đều có tính ứng dụng mạnh mẽ đều phản ánh thực tế linh hoạt của cuộc sống. Kinh tế học không còn là những số liệu bảng phân tích khô khan nữa mà đã nói lên sự hoạt động và phản ứng của con người trước môi trường xã hội, triết học không còn là những thứ trừu tượng xa xôi nữa mà chính là cách chúng ta tìm câu trả lời cho những câu hỏi thuở ấu thơ.

Ứng dụng được tức đã hiểu sâu sắc, tự học giúp chúng ta điều đó và một khi ta hiểu sâu sắc hơn thì nhận thức cũng như con người của chúng ta sẽ đi lên một bước. Đó cũng là mục đích của sự tự học.

Tất cả những ý tôi nêu trên đều chỉ có một mong muốn đó là mong mọi người xem xét lại việc học của mình mà lấy việc tự học trở lại trung tâm trong sự học của mỗi người.

Cuộc tuyệt thực ở trại Cổng Trời

Nguồn:tại đây
Tôi xin nhắc lại: Tôi không theo đạo Thiên Chúa, và điều ấy có thể đã làm cho tôi sống được đến hôm nay, năm 1994. Vì những người Cộng Sản căm những người theo đạo Thiên Chúa nhất nên tất cả mũi nhọn của nền chuyên chính đều chĩa vào họ. Thứ nhất là các đấng bậc trong Giáo Hội, rồi đến các tu sĩ cả nam lẫn nữ. (Tôi đã gặp hai bà sơ bị bắt vào xà lim), rồi đến các chánh trương, trùm trưởng, cả đến hội trống hội kèn cũng bị bắt đi tù hàng loạt.

Tôi trông họ hiền lành, ngơ ngơ nói năng chẳng rõ họ mắc tội gì mà bị hành hạ đến như vậy: Họ có mỗi một tội là tin vào Chúa Jê Su. Thế thôi.

Còn tôi, chả hiểu làm sao, tôi thiếu đức tin đó, và điều đó đã cứu tôi sống. Nói thế không có nghĩa là tất cả mọi người công giáo đi tù đều chết hết đâu. Còn chứ. Còn anh Thi, anh Thọ, chị Diệp những người trong vụ nổi loạn ở Ba Làng Thanh Hóa năm 1954, còn Nguyên Công "Cửa" tức Môn, ngư dân vượt biển, còn Nguyễn Hữu Bổn người thôn Vạn Lộc Nam Lộc Nam Đàn...

Tôi có nghe nói lại là khi đọc lệnh tha anh Thi, anh không chịu ra khỏi tù, họ phải lôi anh ra, anh mới chịu ra.

Ngay cả giáo dân họ cũng kiên cường như vậy, thảo nào mà những người Cộng Sản đặt họ lại hàng đầu để tàn sát họ, tiêu diệt họ.

Cho đến hôm nay năm 1994, tôi vẫn mong mỏi gặp lại vài người còn sót lại trong số 72 người đầu tiên lên Cổng Trời mà vẫn chưa gặp lại ai, ngoài 1 người Cộng Sản là anh Nguyễn Hữu Đang.

Khi ở khu A còn thưa thớt người thì tù ở các trại dưới được dồn lên để lấp vào các chỗ trống, nên có sự sắp xếp lại.

Tôi được chuyển sang khu B dưới quyền quản giáo mới tên là Duật người Nam Hà.

Khu B nhẹ hơn khu A, chế độ ăn uống có hơn đôi chút, được đi lao động nhẹ ở sân trại. Ba tháng được viết thư một lần và được phép nhận thư .

Tôi vừa chuyển sang khu B, chưa được viết thư về nhà thì đã nhận được thư của mẹ tôi gửi lên với địa chỉ:

Công trường 75A Hà Nội C65 HE.

Mọi người đều ngạc nhiên, cả tôi nữa.

Lúc đó nhà tôi ở số nhà 7 phố Thi Sách gần ngay đằng sau Chợ Hôm-Hà Nội.

Tính từ khi lên Cổng Trời, đã được hơn 3 năm có lẽ tôi chưa được viết thư về nhà lần nào, thế mà tại sao mẹ tôi lại biết được địa chỉ này mà viết thơ cho tôi và mẹ tôi có biết là tôi đang ở Cổng Trời Hà Giang không?

Mãi đến khi được tha tù lần thứ nhất (1970) tôi về gặp lại mẹ tôi, tôi mới rõ. Thì ra sau khi tôi được chuyển lên Cổng Trời -1960- thế là mất hết tin tức về tôi. Tất nhiên là mẹ tôi không chịu để mất. Mẹ tôi lên trại cũ ở Bất Bạt Sơn Tây để hỏi. Chánh giám thị trại là thiếu tá Thanh trả lời là ông ta không rõ!

Quay về Hà Nội mẹ tôi đến bộ Công An ở Phố Trần Bình Trọng hỏi. Họ không cho vào gặp. Nhưng từ nhà tôi ở chợ hôm ra đến hồ Thiền Quang chưa đến 1Km nên hầu như liên tục khi nào mẹ tôi dắt cháu đi chơi là mẹ tôi lại tạt vào quấy rầy họ. Đến nỗi người thường trực cứ trông thấy mẹ tôi là tránh mặt không tiếp.

Mẹ tôi cứ đi. Kiên trì dắt cháu đi hỏi. Hỏi mãi. Riết rồi họ đành phải trả lời. Nhưng cũng mất 1 quãng thời gian là hơn 3 năm họ mới cho mẹ tôi cái địa chỉ đó: Công Trường 75A Hà Nội.

Mẹ tôi lại hỏi tiếp: Thế cái Công trường này nó ở chỗ nào ở cái đất Hà Nội này. Họ bảo họ cũng không biết.

Mẹ tôi đời nào chịu.
Và cuối cùng họ đành phải trả lời là tôi đang ở Cổng Trời Hà Giang.
Thế là mẹ tôi đi Hà Giang.
Đi với 2 bàn tay trắng: Không có mảnh giấy đi tiếp tế cho tù.

Quy định đi thăm tù phải có giấy giới thiệu của địa phương cấp, mà địa phương được lệnh không cấp giấy cho mẹ tôi vì thành phần gia đình tôi là địa chủ cường hào đại gian đại ác. Bố thì bị bắn chết trong cải cách ruộng đất, còn tôi thì đi tù nên gia đình tôi là đối tượng của cách mạng cần phải chuyên chính. Mặc, không có giấy giới thiệu mẹ tôi vẫn cứ đi.

Nhưng lên được đến Hà Giang, chưa qua được đèo Quyết Tiến thì bị Công An theo dõi và bắt quay về Hà Nội.

Mẹ tôi đành viết thơ chọ tôi theo địa chỉ trên. Thế là tôi nhận được thư.

Thế ra mẹ tôi vẫn còn sống và tôi, tôi vẫn còn sống.

Cũng có một phần do mẹ tôi không chịu mất dấu vết của tôi, làm phiền họ, quấy rầy họ, mà trên bộ Công An chưa bật đèn xanh cho Ban giám thị trại xóa tên tôi trong danh sách tù nhân ở Cổng Trời này.

Đã có lần họ cho người giả làm tù ở cùng trại với tôi về báo tin là tôi đã chết. Nhưng mẹ tôi khăng khăng không tin. Mẹ tôi cứ làm tới, sấn tới, và điều đó phần nào đã cứu sống tôi.

Vả lại ở trên Cổng Trời này, đối với các bậc như Cha Vinh, cha Quế, tu sĩ Đỗ Bá Lung, tu sĩ Nguyễn Trung Chính tức Nhẫn, tôi là hạng bét so với các đấng bậc ấy nên mũi nhọn của cuộc tàn sát không chĩa vào tôi. Ban giám thị trại đem so tôi với các bậc thánh đó thấy rằng tôi là một phần tử tiến bộ trong số này.

Này nhé: Tôi không cầu kinh, không làm dấu thánh, không ăn chay trước lễ phục sinh. Không cần nghi lễ Giáng Sinh, thế là tôi chấp hành nghiêm chỉnh mệnh lệnh của Ban Giám thị rồi còn gì nữa.

Còn với các đấng bậc kia

Cấm cầu kinh, cứ cầu.

Cấm làm dấu thánh trước khi ăn. Cứ làm. Ngày lễ Giáng Sinh cứ nghỉ không chịu đi làm.

Và nhất là chuyện tôi cứ ăn không chịu tuyệt thực cùng các vị đó khi có lệnh cấm làm dấu thánh trước khi ăn.

Câu chuyện tuyệt thực xảy ra như sau: "...Đây là nhà tù, chứ không phải là nhà thờ của các anh, nên cấm mọi hành vi tôn giáo và tịch thu mọi thứ: thánh giá, kinh bổn, tràng hạt". Tịch thu thì được. Còn cấm thì hơi khó hơn, nếu không nói là không cấm được.

Cấm cầu kinh các vị ấy cứ cầu, vì làm thế nào mà biết các vị đang cầu kinh?

Ăn xong, rồi ngồi chơi nhìn nhau. Im lặng không nói chuyện, không đi lại, thế là cầu kinh đấy.

Chỉ có đêm đến, lệnh cấm ngồi là có hiệu lực, chứ ban ngày chả nhẽ lại cấm ngồi bắt nằm mãi sao.

Ban Giam Thị uất lắm!

Sau chuyện tu sĩ Đỗ Bá Lung, Chánh giám thị Nguyễn Quang Sáng tỏ ra quyết liệt hơn, cứng rắn hơn, dấn tới một bước nữa.

Cấm triệt để làm dấu thánh trước khi ăn cơm. Nhưng lần này thì Nguyễn Quang Sáng phải chịu thua.

"Ai cho các anh ăn?" chúng tôi. Chúng tôi cho các anh ăn chứ không có Chúa nào cho các anh ăn cả."

"Cấm cầu kinh, các anh vẫn lén lút cầu kinh vậy bây giờ trước khi ăn, tôi cấm các anh làm dấu. Các anh phải cảm ơn người cho các anh ăn. Đúng lắm, nhưng đó là chúng tôi đây chứ không có chúa nào hết.

Không có con mẹ Maria, thằng Jê su nào cả. Biết chưa?"

(Nguyên văn như vậy, tôi xin lỗi các vị phải viết đúng, không dám xuyên tạc, bịa đặt, báng bổ gì).

Và đến bữa ăn. Quản giáo đứng đó. Mọi lần thì cửa mở, chúng tôi bê cơm vào trong phòng. Đóng cửa lại. Chúng tôi chia nhỏ từng xuất một và ăn. Không có sự hiện diện của ai cả.

Nhưng hôm ấy, bê cơm vào, cửa vẫn mở, Quản Giáo đứng đó kiểm soát và nhắc lại lệnh cấm của Ban Giám Thị.

Tất cả, cả tôi, không ai phải bảo ai, không chia cơm ra ăn. Đứng mãi chán, Quản Giáo đóng cửa lại đi về.

Đến chiều, tù nhà bếp đến lấy thùng. Cơm canh vẫn nguyên. Cơm canh đều chia vào hai cái thùng gỗ to, chứ không chia thành một phần như ở xà lim.

Buổi chiều, đích thân Chánh Giám Thị xuống, mọi việc lại diễn ra đúng như buổi sáng. Mặt tái vì giận dữ. Nhưng làm thế nào mà bắt họ ăn cho được?

Không có khí thế hừng hực đấu tranh như những người Cộng Sản ở Sơn La, Côn Đảo tuyệt thực, không có hô khẩu hiệu, tất cả đều lặng lẽ ngồi im.

Không thể dùng lưỡi lê và sức mạnh để nhét cơm vào mồm họ được.

Họ không ăn, thế thôi. Không hò reo, không gõ bát, gõ đĩa, không ai diễn thuyết, kích động, yêu sách điều gì.

Im lặng, ai ngồi chỗ ấy. Giám thị Sáng đứng đó, không một ai thèm nhìn vào mặt ông ta cả. Tất cả đều quay mặt đi chỗ khác.

Giám thị Sáng đành phải ra về.

Đêm đến: Tôi đói không thể nào ngủ được. Đã một ngày trôi qua, và hai bữa không ăn. Suốt mười năm tù đầu tiên, tôi không bỏ một bữa cơm nào, ngoài hai bữa hôm ấy.

Chỉ có khi nào đến ngày giỗ người sinh ra tôi bị bắn chết, là tôi lặng lẽ khai ốm và báo cháo, vì tôi nghĩ: Đói ngày giỗ cha, no ba ngày Tết.

Dạ dầy tôi là dạ dày thép, nó ngốn và nghiền nát tất cả mọi thứ mà đối với người khác bình thường, cùng tù với tôi cũng không kham nổi.

Sắn sống, khoai sống, ngô sống, om on sống, cả cây ngô non tôi cũng ăn được, khoai hà chỉ có ngỗng mới ăn, tôi cũng ăn được, khoai sọ tôi ăn cả vỏ, rong diềng ăn cả vỏ, có lần đi làm tôi lẩn vào ruộng trồng đỗ Mèo ních một bụng quả đỗ sống, chiều về say gần chết.

Ra suối tắm, quả vả mọc hoang tôi bứt ăn, cũng say gần chết.

Chỉ gần chết thôi chứ chưa chết hẳn. Ngất ngư lảo đảo thôi.

Sắn ăn say, ngày nào mà tôi chả say sắn, mà theo cái đầu óc ngu dốt của tôi chính có lẽ do say sắn triền miên mà tôi vẫn còn sống đến hôm nay.

Chả là rét quá, tôi bị sưng phổi. Cứ thấy ho, sốt, rồi tôi không dám nói láo cứ cúi xuống ngẩng lên là nghe trong phổi có tiếng óc ách...

Ở Cổng Trời không phải khai ốm, vì có còn khai với ai được. Ốm mặc, không có thuốc men gì hết.

Quản Giáo trực thấy tôi nằm ốm, hỏi làm sao. Hỏi để mà hỏi. Rồi thôi. Để đấy. Tôi cứ ăn sắn, say sắn. Và rồi khỏi. Mọi người: đều coi chuyện đó là chuyện thường tình.

Mãi đến khi về, năm 1970 tôi đi khám ở Bệnh viện A để kiểm tra phổi. Sau khi chụp X quang, kết luận: dầy dính màng phổi. Bác sĩ Kim hỏi tôi là tôi bị sưng phổi bao giờ và ở đâu hút cho.

Tôi trả lời là quên mất thời gian và chưa ai hút ra bao giờ. Bác sĩ Kim rất ngạc nhiên.

Qua chuyện trên, tôi đi đến kết luận là Acide Cyavidrique nghĩ thế, theo đầu óc ngu dốt của tôi thôi.

Ở Cổng Trời, khu nọ cách biệt với khu kia bằng một hàng rào bao quanh khu. Cấm liên lạc nhưng khi trả thùng cơm canh, thì đem đến một cái sân chung để nhà bếp tiện lên lấy. Có lần khu C: họ được mua sắn cải thiện để ăn thêm. Chả hiểu sao cả khu say, và chết đâu mất năm người.

Sáng ra, quản giáo trực vào thấy chết vì say sắn bèn ra lệnh tịch thu số sắn còn lại, cấm không cho ăn, và đem ra tập trung ở chỗ trả thùng cơm.

Hôm ấy đến lượt tôi bưng thùng ra trả. Tôi thủ ngay gối một thùng sắn luộc rồi dấu vào bụng đem về buồng ăn.

Cái vị tu sĩ bảo tôi: Họ ăn chết hàng loạt kia kìa, lấy về làm gì?

Tôi bảo: Họ có nhiều họ ăn mới chết! Chứ mình cứ củ một ăn, chết thế nào được. Và tôi ăn. Ăn củ một, thấy đắng quá thì thôi. Hơi say một chút chẳng sao cả. Và những chất say ở sắn đã làm tôi khỏi bệnh phổi, làm tôi no, và có thêm một hiện tượng là hai bên quai hàm tôi to bạnh ra. Say sắn có khổ nhưng không khổ bằng đói: tôi chọn cái ít khổ hơn.

Điều này là sự thật 100%, cứ ăn sắn nhiều là hai bên quai hàm to bạnh ra. Xin các nhà khoa học giải thích hộ cho. Kể lại với quý vị như thế, để quý vị biết tôi đói đến thế nào. Tôi đói lắm ấy!

12kg cả gạo cả sắn một tháng, với sức tôi cao 1m76 nặng 78kg và ba mươi tuổi thì các vị chắc cũng hiểu cho được.

Lại quay trở về với câu chuyện tuyệt thực. Thế là qua một ngày và hai bữa không ăn.

Tôi xin phép được nhắc lại, mười năm tù đầu tôi không nhịn bữa nào ngoài hai bữa cơm tuyệt thực đó, và tất nhiên là tôi đói lắm.
Ở trong Mein Kamp (Cuộc Chiến Đấu Của Tôi) Hitler viết: "Cái đói nó theo tôi như một cái bóng..." tôi xin thêm: Nó hành hạ tôi khổ sở nữa.

Tối hôm đó, đã hơn chín giờ mà tôi không thể nào ngủ được, cứ dở mình trằn trọc.

Tu sĩ Chính tức Nhẫn ở xứ Trung đồng Thái Bình, nằm cạnh tôi khỏi khẽ:

"Đói không ngủ được à."

"Vâng, đói lắm không ngủ được."

"Vậy, có lẽ mai Vĩnh cứ ăn đi. Tôi sẽ đứng ra chia cơm để Vĩnh ăn nhé."

"Tôi, xin thưa rằng, phần xác tôi nặng, nặng lắm nhưng cơ thể tôi lúc đó thì rất nhẹ. Tôi cân nặng 49kg.

Tôi gầy đến "lõ đít" ra. Tôi xin phép được dùng từ này, vì đúng là tôi gầy đến như vậy. Những lúc ngồi chơi, hoặc luyện yoga tôi nhìn xuống đùi, đầu gối ống chân đều trơ xương ra khẳng khiu khô khắc.

Trước đó ít hôm ra khênh cơm vào, có một anh bạn ở nhà bếp nhìn thấy tôi ra hiệu bằng cách lấy hai bàn tay vuốt vào hai má, chúm cái miệng lại ra cái điều là gầy quá má hóp, vêu miệng.

Tôi cũng biết vậy, tôi yếu lắm rồi, tay nắm không chặt, hai bàn tay xoa vào nhau như sự cọ sát của hai thanh củi khô, không có cái mềm mại của da thịt. Ở Cổng Trời này không có gương để soi, xem mặt mũi hình hài của mình nó ra sao. Mỗi lần cắt tóc, quản giáo đưa cho một cái tông đơ, cắt cả tóc lẫn râu thế thôi không có gương lược, dao kéo gì. Có lần muốn nhìn cái bản mặt mình, tôi đã bắt chước Nguyễn Tuân đái một bãi xuống đất rồi soi mặt mình vào đó. Nào có thấy rõ chó gì đâu mà cái nhà ông Nguyễn chỉ nói ngoa ngôn, phóng đại xui dại anh em thôi.

Vì gầy thế, nên hai cái mông teo lại, cái xương cùng nó thò dài ra, khi đi ngoài, chùi nó chạm đâm vào tay mình.

Chính lúc ấy tôi mới cảm nhận thấy hết cái từ gầy lõ đít.

Mười năm tù, lúc nào tôi cũng ước ao có một bữa no, thèm muốn làm sao mà được ngồi trước nồi cơm nóng bốc hơi nghi ngút, muốn ăn bao nhiêu thì đơm bấy nhiêu, và có đầy một bát muối để ăn cho mặn. Cả muối tôi cũng thèm nhạt. Chỉ có một ước muốn đơn sơ ấy, thế mà suốt trong 10 năm tù lần thứ nhất ngay cả ở các trại dưới tôi cũng không đạt được nói chi nữa là ở trại Cổng Trời này.

Tất cả các nhà tù của Cộng Sản miền Bắc mà tôi đã đi qua và sống ở đó đều đói và có thể chết đói được.

Khi còn ở trại Bất Bạt Sơn Tây, tôi ở toán kiên giam, biệt lập: phải xay lúa giã gạo ở khu biệt lập kiên giam này, tôi nhớ tới phim "Samson và Đalila" anh chàng Samson mù quay cối xay. Chúng tôi cũng vậy. Rào kín và hẹp chả nhìn thấy gì ở ngoài cả. Chế độ ở kiên giam Bất Bạt cũng học đòi cách quản lý và đối xử với tù của Cổng Trời, nhưng mà là học trò hạng bét.

"Cũng tù hình sự đem cơm đến để đấy rồi chạy."

"Cũng không được ra khỏi khu cấm!"

Nhưng vẫn còn được viết thư về nhà và còn được gặp và nhận đồ tiếp tế của người nhà đi thăm nuôi.

Chứ ở trại Cổng Trời Cắn Tỷ không một ai được thăm nuôi. Không một ai trong suốt thời gian bảy năm tôi ở đó.

Khi đói, tôi kêu. Tôi kêu đến nỗi Quản Giáo phụ trách Giáo dục tên là Kích người liên khu năm Bình Định đi tua nghe thấy, gọi tôi ra ngoài lục vấn, lên lớp và đe dọa tôi:

"Anh Vĩnh, anh định kích động mọi người, phải không. Cẩn thận. Không có lại đi suốt đấy."

"Thưa ông, tôi đói thật, ông ạ. Phàm cái gì uất ức, đau khổ quá cũng phát ra thành tiếng. Có thế thôi.

"Thứ tôi mà đi kích động hở ông. Vả lại tôi là một sĩ quan chiến đấu, võ biền. Ông xét xem, tôi sẽ kích động được ai trong số những tu sĩ ở cùng với tôi trong buồng. Tôi nói rất thật, để chứng minh điều đó ông làm ơn súc cho tôi một bát cám lợn kia tôi sẽ ăn hết ngay trước mặt ông cho ông xem (Chả là chỗ nói chuyện gần chỗ nuôi lợn của nhà bếp mà)."

Chừng quản giáo Kích cũng hiểu ra, nên không trấn áp tôi thêm nữa cho tôi trở về buồng.

Trên đường về đi qua dàn su su, quả mới bé bằng ngón tay cái, tôi vốn cao, nên với tay vặt ngay lấy dăm bẩy quả đút túi về ăn sống.

Trần Liệu bảo tôi: "Được ra khỏi buồng, bất cứ cái gì động đậy đều vồ lấy ăn hết, chỉ trừ khi vồ nó mà nó kêu "Ối giời ôi" thì chịu không ăn mà thôi".

Hắn ăn dun, ăn dế, ăn gián, ăn cả trứng con bọ hung nữa...

Chúng tôi cười với nhau.

Trần Liệu cũng đói lắm? Hắn to con gần bằng tôi và vốn là đồ tể Quỳnh Lưu Cầu Giát, rất thích ăn tiết canh "me" (bê non)

Nhưng tôi cũng phải phục hắn; thế mà hắn cũng chịu được hai ngày liền theo các đấng bậc tu sĩ đấy.

Hắn là con chiên cực kỳ ngoan đạo. Ông Chính bảo tôi: "Mai tôi sẽ chia cơm để Vĩnh ăn. Vĩnh cứ ăn đi. Không sao cả. Có gì tôi sẽ nói với anh em trong phòng để họ cảm thông trường hợp của Vĩnh."

Tu sĩ Chính là người có uy tín nhất ở trong số tu sĩ còn lại đó.

Tôi im lặng. Đối với ông, tôi có một món nợ lớn lắm! Lớn lắm mà không bao giờ có thể trả được.

Tôi vốn có duyên nợ nhiều với đất Thái Bình và ông, ông là người sinh ra ở đó và tu ở đó. Tôi và ông có rất nhiều điểm tương đồng. Ông hay nói chuyện với tôi lắm.

Tôi ở với ông từ ngày đầu đi tù, từ trại Bất Bạt Sơn Tây lên ở khu A Cổng Trời, ở cho đến lúc ông bị gọi đi chết.

Những năm 50, ở Thái Bình tôi có may mắn gặp Đức Giám mục người Tây Ban Nha coi sóc địa phận, cha Chính, cha Trụ ở thị xã, rồi các cha ở Sa Cát, Phương Xá, Bái Bồ Trung, Phù Lưu (ngã ba Đọ), Cao Mái. Tôi hành quân giải vây cho các nhà thờ bị vây hãm.

Tóm lại tôi có nhiều kỷ niệm đẹp về các xứ đạo ở đó lắm.

Tôi nói chuyện vói tu sĩ Chính về các kỷ niệm xưa đó, hai ngươi rất tâm đầu ý hợp.

Thấy tôi kêu la nhiều. Có một hôm, tu sĩ Chính ốm, ốm ở đây ít ai bỏ ăn. Ở Cổng Trời, ốm phải không? Tốt. Tốt lắm! Nếu ốm chết thì hay quá: Khỏi phải giết! Đỡ mệt hơn.

Hôm ấy tu sĩ Chính bỏ ăn. Ông rất ít khi ốm, từ Bất Bạt tôi thấy ông không ốm bao giờ tuy rằng ông rất gầy và xanh. Nhưng sự chịu đựng gian khổ, đầy đọa của ông thì tôi phải ngã mũ kính cẩn vái chào.

Lúc nào cũng ôn tồn, nhỏ nhẹ, điềm tĩnh cười nói như không cho dù có điều gì xảy ra.

Tôi còn mấy viên thuốc cảm, đưa ông dùng ông bảo không sao đâu. Chỉ có miệng ông đắng và bụng ông nó không ổn, thế thôi. Buổi chiều qua đi ông cũng bỏ cơm. Chúng tôi thường ăn vào độ ba, bốn giờ chiều. Cấm mọi hình thức nấu nước đun lại. Với chúng tôi chín giờ đêm là khuya rồi. Tu sĩ Chính lay tôi dậy và bảo:

"Vĩnh ăn hộ tôi đi, chứ để mai thiu, bỏ đi. Phí của lắm."

Tại sao tôi lại có thể ăn xuất cơm của tu sĩ Chính như thế được chứ. Tôi từ chối: Tu sĩ cố ăn đi chứ?

"Thật tình tôi đắng miệng lắm, và bụng tôi nó nóng như lửa, quặn đau lắm, không thể ăn được. Vĩnh ăn hộ tôi đi."

Không để đến mai thì phải đổ đi mất! Họ có cho đun đâu mà bảo nấu lại được.

"Ăn đi. Ăn hộ tôi, khỏi phí. Vĩnh ạ."

"Nếu Vĩnh không ăn, sáng mai nhà bếp nó lên nó lấy đồ cho lợn thì uổng lắm Vĩnh ạ. "

Tôi nghĩ thấy đúng như ông nói. Ở các trại dưới, cơm có thể phơi khô để dành. Chứ còn ở đây, thì chỉ còn có đổ xuống nhà bếp cho lợn ăn mà thôi.

Thế thì tại sao lại cho lợn ăn nhỉ? Trong khi ấy tôi đói, tôi đói lắm, tôi thèm lắm. Tôi thấy thế và nghĩ đúng như thế.

Lúc đó đã là 10 giờ đêm rồi:

Thế là tôi ăn hai xuất cơm đó, các vị đọc tới đây, tất có vị sẽ chửi rủa tôi. Xin các vị cố hiểu mà đánh chữ đại xá cho.

Tôi ăn, ăn cả hai xuất cơm canh trong nháy mắt và nằm ngủ.

Ngủ yên và say cho đến sáng. Lâu lắm tôi mới được "sínđề" và được một bữa tương đối.

Cám ơn tu sĩ Chính tức Nhẫn. Cám ơn nhiều.

Sáng hôm sau, như thường lệ, mọi người và cả tu sĩ Chính dậy sớm cầu kinh và ông bảo tôi ông thấy đỡ nhiều. Chỉ đến chiều hôm ấy, tôi đã hiểu ra là tu sĩ đã nhịn cho tôi ăn.

Cám ơn ông. Cho đến tận hôm nay ba mươi năm trôi qua tôi vẫn còn món nợ đối với ông mà không thể nào trả được.

Chỉ còn biết cầu Chúa, để Chúa biết đến sự hy sinh cao cả của ông, đến sự vất vả nhọc nhằn của ông khi ông vác cây thánh giá của Chúa theo Chúa đến chết.

Cầu sao cho linh hồn ông được tới thiên đàng.

Sáng hôm thứ hai của sự tuyệt thực, tù lại khênh cơm lên.

Quản giáo lại đứng đấy để giám sát. Không ai nhúc nhích gì. Không ai ăn cả, kể cả tôi. Lúc ấy tu sĩ Chính đứng dậy cầm bát chia cơm canh của tôi ra cái thùng gỗ của nhóm năm người, tôi vẫn ăn cùng với tu sĩ. Tu sĩ Chính xúc vào bát của tôi, cơm canh đầy đặn và lặng lẽ bê đến trước mặt tôi.

“Đây phần của anh, anh ăn đi” và về ngồi lại ở chỗ mình.

Một lần nữa tôi lại xin các vị cố hiểu cho tôi và bỏ qua cho tôi.

Tôi không theo đạo Thiên Chúa và không làm dấu thánh bao giờ.

Tôi ăn. Hà tất gì tôi lại nhịn không ăn. Không có điều gì thúc đẩy buộc tôi bắt tôi không ăn cả.

Tôi nghĩ đúng như vậy.

Nhân cơ hội ấy. Quản Giáo bèn lên tiếng:

“Đấy các anh thấy không? Anh Vĩnh, anh ấy ăn cơm không cần làm dấu thánh. Có sao đâu nào. Anh ấy vẫn ăn được một cách ngon lành, thế thì tại sao các anh lại không ăn?

Các anh là đồ ngu dốt, cuồng trí, dại dột dám chống lại Đảng và Chính phủ.

Rồi các anh sẽ biết.”

Không một tu sĩ nào trả lời đáp lại.

Có tôi lên tiếng:

"Xin lỗi ông, chắc ông đọc lý lịch của tôi thì ông đã rõ, tôi không theo đạo nào cả? Phật không, chúa cũng không, mà lệnh của các ông thì chỉ có cấm làm dấu thánh trước khi ăn mà thôi. Tôi, tôi từ thuở cha sinh mẹ đẻ chưa làm dấu thánh bao giờ. Vì vậy tôi ăn có thế thôi."

Đứng cho đến lúc tôi ăn xong. Quản giáo thấy trơ trẽn quá, quay gót khóa cửa ra về.

Đến buổi chiều không thấy mặt ai cả. Cả Giám thị, cả Quản giáo cả lính coi tù.

Tu sĩ Chính đứng dậy chia cơm cho một mình tôi. Tôi ăn.

Các đấng bậc và kể cả T.H Liệu cũng không ăn.

Hai ngày trôi qua.

Sáng hôm thứ ba tù khênh các thùng cơm canh nguội lạnh còn nguyên xuống nhà bếp và rồi lại khênh lên với cơm canh mới hãy còn nóng.

Không có ai đi kèm.

Ban Giám thị không.

Quản giáo không.

Khênh cơm canh vào buồng. Khóa cửa lại.

Chia đều.

Và các đấng bậc tu sĩ lại làm dấu thánh trước khi ăn.

Chẳng ai cười cợt, nói năng, hát hò, reo vui gì trước cuộc đấu tranh đã dành được thắng lợi lẫy lừng và vang dội đó (như các bài báo của Cộng Sản mà tôi đã đọc riết về các cuộc tuyệt thực của họ cả)

Và cuộc sống của chúng tôi lại lặng lẽ trôi như thế cho đến khi tôi được về và các vị còn lại chết hết.

1/8 Âm lịch năm 1994
Kiều Duy Vĩnh

Bộ mặt thật của đồng chí

'Kẻ ám sát' của Triều Tiên có vũ khí giống James Bond

Cảnh sát Hàn Quốc hôm nay công bố hình ảnh những loại vũ khí, được một người đàn ông Triều Tiên mang theo khi bị bắt tại ga tàu điện ngầm ở Seoul hồi tháng 9/2011, giống với loại vũ khí trong loạt phim về 007.

Các loại vũ khí mà người đàn ông Triều Tiên mang theo được cho là để ám sát nhà hoạt động nhân quyền tại Hàn Quốc. Ảnh: CNN
Cả ba loại vũ khí người đàn ông Triều Tiên mang theo đều mang phong cách "trá hình", giống như trong tác phẩm điện ảnh về điệp viên 007 James Bond của Anh. Một loại vũ khí hoạt nhìn trông giống như một chiếc đèn pin nhỏ với dây đeo ở tay và có hai chữ "cảnh sát" ở trên thân. Sau khi kiểm tra kỹ hơn, chiếc đèn pin này có ba lỗ nhỏ và có chứa đạn ở trong đó cùng với cơ chế kích nổ trong thân đèn, CNN cho hay.
Hai trong số những viên đạn vẫn còn trong chiếc "đèn pin". Các chuyên gia quân sự Hàn Quốc nói rằng chưa từng thấy loại vũ khí kiểu này bao giờ. Các cuộc thử nghiệm cho thấy rằng "khẩu súng đèn pin" này có khả năng bắn chính xác và đạn có thể thâm nhập sâu vào tấm nệm từ khoảng cách 4,8 m, tức là có thể gây sát thương từ cự ly gần.
Hai loại vũ khí khác được tìm thấy trên người kẻ bị tình nghi, mang họ An, là một chiếc bút bi bình thường nhưng có chứa một cây kim có độc ở đầu và một cây bút khác có khả năng bắn một viên đạn nhỏ bọc trong một loại hóa chất độc hại. Chỉ cần 10 mg chất độc này là đủ để gây ra các vấn đề về hô hấp và suy tim.
Sát thủ đã sắp xếp để gặp và ám sát Park Sang-Hak, một nhà hoạt động nhân quyền, ở Seoul. Park là người đã trốn khỏi Triều Tiên, hiện đứng đầu tổ chức thường xuyên thả bóng bay và truyền đơn từ Hàn Quốc qua biên giới, sang nước láng giềng phía Bắc. Park nói với các nhà chức trách rằng ông cảm thấy có điều gì đó không ổn trong cuộc hẹn của An.
Sau khi sang Hàn Quốc, Park cùng những người trong tổ chức của mình thường xuyên tổ chức những cuộc thả truyền đơn kêu gọi người dân Triều Tiên nên noi gương người dân các nước Arab ở Bắc Phi và Trung Đông, tạo nên một mùa xuân Arab kiểu Triều Tiên.
Kiểm tra những loại vũ khí, Park nói với CNN: "Bạn thường sẽ chú ý đến khẩu súng nên những vũ khí trá hình này lại rất lợi hại, qua mắt được mọi người mà vẫn giết người rất dễ dàng". Park cũng nói thêm rằng bất chấp những nỗ lực của Triều Tiên, các hoạt động của ông vẫn sẽ không thay đổi. Hiện nay, cảnh sát Hàn Quốc bảo vệ Park cả ngày lẫn đêm.
An được nhận dạng là một cựu binh sĩ của lực lượng đặc biệt Triều Tiên, từng được cấp quyền tị nạn tại Hàn Quốc từ cuối những năm 1990, sau khi tuyên bố đã trốn khỏi miền bắc. Báo chí Hàn Quốc cho biết An bị buộc phải làm việc trở lại cho Triều Tiên sau khi gia đình của ông ở trong nước bị đe dọa. An bị Hàn Quốc kết án từ tháng 4, với hình phạt 4 năm.

Việt Nam Thương tín (tàu)


Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Con tàu Việt Nam Thương tín là một con tàu vận tải hàng hải được biết đến vì chuyến hải hành vượt biển ngày 30 Tháng Tư, 1975 từ Sài Gòn, Việt Nam sang đến Guam, chở hơn 2000 người Việt tỵ nạn. Song khi cặp bến con tàu này lại dùng để đưa gần 1600 người Việt hồi hương, trở về Việt Nam dưới chính thể mới của Cộng hòa Miền Nam Việt Nam.

Lịch sử con tàu

Việt Nam Thương tín được đóng năm 1956 do xưởng đóng tàu của Ý hạ thủy với tên Pietro Canale trọng tải 6.505 tấn. Năm 1962 hãng Nouvelle Compagnie Havraise Peninsulaire của Pháp mua lại và đổi tên tàu thành Ville de Diego-Suarez 2. Được ba năm thì tàu sang tên cho Panamá, đặt là Sonia. Năm 1968 hãng Việt Nam Hàng hải Thương thuyền của Việt Nam Cộng hoà mua lại dùng làm tàu vận tải và lấy tên Việt Nam Thương tín I.[1]

Năm 1975

Mật vụ chở vàng

Khi Sài Gòn thất thủ con tàu nằm ở bến Bạch Đằng với mật vụ của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Dương Văn Minh giao cho để dùng chở số vàng dự trữ ở Ngân hàng Quốc gia Việt Nam rời Việt Nam.[2] Thống đốc Ngân hàng là Lê Quang Uyển không chấp thuận nên con tàu rời bến chỉ chở người chạy loạn khoảng hơn 2000 người tìm đường ra biển.

Trúng pháo

Khi tàu qua khu rừng Sát trên sông Lòng Tảo gần 12 giờ trưa thì bị trúng 3 trái pháo. Nhà văn Chu Tử và một cháu bé không may bị tử thương phải thủy táng ở cửa sông. Ba ngày sau con tàu lết vào vịnh Subic, Philippines, được sửa chữa và chỉ lối đến Guam.[3]

Tới Guam

Tháng Chín, 1975 tàu cặp bến Apra, đảo Guam lãnh thổ của Mỹ. Trong khi đó ở đảo có khoảng 1600 người tuy đã rời Việt Nam nhưng nay nhất quyết trở về Việt Nam. Ngoài ra có khoảng 100 người khác sang đến Bắc Mỹ cũng xin hồi hương. Chính phủ Mỹ cho họ tự quyết định và chuyển họ về Guam. Nhiều người tin rằng chính quyền mới ở Miền Nam Việt Nam của phe cộng sản sẽ đón nhận họ trở lại.[4] Ngày 16 tháng 10, tàu Việt Nam Thương tín rời Guam, trực chỉ Việt Nam với 1546 người tự nguyện hồi hương[5] trong số đó có nhạc sĩ Trường Sa.[6] Chỉ huy con tàu là trung tá hải quân Trần Văn Trụ.

Về lại Việt Nam

Ngày 27 tháng 10 con tàu cặp bến Vũng Tàu[4] nhưng bị điều ra Nha Trang; tất cả bị bắt giam ở trại Đồng Tre, tỉnh Phú Khánh.[7] Đàn bà con nít cũng bị giam ít nhất 9 tháng. Nhạc sĩ Trường Sa chịu 9 năm tù. Trung tá Trụ thì bị giam 12 năm tù cải tạo.[8]
Về con tàu thì tên Việt Nam Thương tín bị bỏ; tàu đổi tên thành Vũng Tàu đến năm 1986 thì tàu bị phế thải.[9]
Năm 2007 chính phủ Mỹ cho phép ai thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa cũ theo tàu Việt Nam Thương tín về Việt Nam và bị hơn 3 năm tù cải tạo có thể nộp đơn xin tỵ nạn diện HO.[10]

Bị 'rút ruột' tài khoản vì lời mời nghe nhạc

Chẳng rõ thực hư thế nào, nhưng nghe lời mời, lại đúng vào ngày sinh nhật, chị Mai cầm điện thoại nghe xong bản nhạc.

Ăn cơm tối xong, cầm điện thoại lên, chị Mai thấy có cuộc gọi nhỡ. Nhìn đầu số 0912, có đuôi 68, nghĩ là số điện thoại đã được sử dụng khá lâu, nghĩ của người quen, bè bạn, hoặc khách hàng gọi đến, chị liền gọi lại. Đầu dây bên kia không nghe máy, mà chuyển hướng cuộc gọi đến, rồi mời chị nghe một bản nhạc, với lời giới thiệu của một người bạn gửi tặng.

Chẳng rõ thực hư thế nào nhưng nghe lời mời, lại đúng vào ngày sinh nhật, nên chị Mai cũng cầm điện thoại nghe xong bản nhạc. Nhưng khi chị kiểm tra tài khoản thì biết vừa bị trừ 15.000 đồng - "giá" của bản nhạc chị bị "mời" nghe.
Không riêng chị Mai, anh Nam cũng gặp trường hợp tương tự. 23 giờ , anh nhận được tin nhắn từ số máy không lưu trong danh bạ. Tin vỏn vẹn: "Em đang có việc gấp. Anh gọi lại cho em ngay nhé". Nghĩ là người quen, anh Nam gọi lại thì cuộc gọi cũng báo chuyển hướng đến... một bản nhạc, và không ai nghe máy. Thấy lạ, anh Nam kiểm tra tài khoản thì cũng biết vừa bị trừ 15.000 đồng.

Hiện, ngoài trò nhắn tin lừa trúng thưởng, lừa khuyến mại, còn có nhiều kiểu "rút ruột" tài khoản của người sử dụng điện thoại. Vì vậy, khi thấy cuộc gọi nhỡ, tin nhắn "lạ" từ những số điện thoại lạ, mọi người cần cảnh giác để khỏi mất tiền oan và bực mình.

Saparmurat Atayevich Niyazov - nhà độc tài Trung Á mang dấu ấn kỳ lạ


bởi Bùi Quang Minh vào 23 tháng 11 2012 lúc 13:34 ·

Saparmurat Niyazov, "Tổng thống suốt đời", "Người cha đáng kính của mọi người dân" của Turkmenistan từ năm 1990 - 2007, là một trong những nhà độc tài ít nổi tiếng nhất mọi thời đại nhưng lại là kẻ có đầu óc điên dại hoàn toàn...

Saparmurat Niyazov (1940–2006) cựu lãnh tụ của Turkmenistan từ 1985 đến khi từ trần năm 2006, một quốc gia Trung Á bên cạnh biển Caspi, phần lớn là dân Hồi Giáo.


Niyazov gia nhập hàng ngũ Đảng Cộng sản Liên xô từ năm 22 tuổi thời sinh viên học tại Leningrad và trở về Turkmenistan thăng tiến nhanh chóng. Ông đã đảm đương chức Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô viết Turkmenistan (trong thành phần Liên Xô) từ 1985 đến 1991.

Chủ tịch Xô viết Tối cao Turkmenistan năm 1990, và Bí thư thứ nhất Trung ương đảng Cộng sản Turkmenistan trong thời gian 1985–1991. Ông trở thành Tổng thống Turkmenistan đầu tiên vào tháng 10/1990. Turkmenistan tuyên bố độc lập ngày 27/10/1991, một trong những nước cộng hòa cuối cùng ly khai khỏi Liên bang Xô viết.

Tại Turkmenistan, ông lập nên tệ sùng bái cá nhân, ngợi ca mình là Người cha đáng kính của mọi người dân Turkmenistan "Turkmenbashi". Ông nổi tiếng thế giới do bắt tất cả nhân dân bắt chước những tính lập dị của mình.

Niyazov cho tập hợp các tư tưởng, suy nghĩ và những lời răn đạo đức của mình trong một cuốn sách đặt tên là Ruhnama. Mọi trường học ở Turkmenistan đều phải đưa cuốn này vào chương trình giảng dạy và bắt học sinh phải đọc hàng ngày. Niyazov tuyên bố, bất cứ ai đọc Ruhnama ba lần mỗi ngày thì đều có thể được lên…thiên đàng. Theo lời ông, ai đọc nó sẽ "trở nên thông minh, nắm bắt được thế giới tự nhiên và quy luật của vạn vật...". Ông cho rằng cuốn sách này có giá trị ngang với kinh Coran của Hồi giáo và kinh Phúc Âm của Thiên Chúa giáo. Mỗi khi có sự kiện quan trọng, người dân còn làm hình bìa cuốn sách với kích thước khổng lồ để đem đi rước.


Rước sách Ruhnama trong lễ hội

Ông ta cho đổi tên gọi tháng giêng thành tên của mình và tháng tư thành tên của mẹ mình. Ông ta cho đổi tên thành phố Krasnovodov nằm trên bờ Caspienne theo danh xưng của mình thành thành phố Turkmenbashi. Tên ông còn được đặt cho thánh đường Hồi giáo lớn nhất Trung Á, ngọn núi cao nhất Turmenistan, sân bay quốc tế, một công viên giải trí lớn dành cho trẻ em và cả một mảnh thiên thạch rơi xuống đất nước này.

Niyazov cho dựng tượng mình với nhiều kích cỡ và kiểu dáng khác nhau bằng vàng hoặc đồng để đặt khắp nơi. Đặc biệt, trong số này có một bức tượng bằng vàng đặt tại thủ đô Ashkhabat, trên đó được gắn hệ thống xoay để có thể tự động hướng theo ánh nắng mặt trời. Chân dung ông còn xuất hiện trên tiền giấy, nhãn những chai rượu vodka, vỏ kẹo chocolate, hộp trà cùng vô số áp phích.



Tổng thống Niyazov còn theo sở thích riêng đã ban hành lệnh cấm nghe đài trên ô tô, hút thuốc lá nơi công cộng, cấm hát opera, múa ba lê, trồng răng vàng, để râu rậm và cho mở một chiến dịch đặc biệt để chống nạn hát nhép trong mọi sự kiện văn hóa. Ông từng nói: "Đừng giết chết các tài năng bằng việc hát nhép. Hãy tạo ra nền văn hóa mới của chúng ta". Lời nói của ông được coi là sắc lệnh. Trong buổi nói chuyện năm 2004 tại một trường đại học địa phương, Tổng thống Saparmurat Niyazov cho rằng người dân nên bỏ mốt trồng răng vàng mà thay vào đó nên giữ nguyên răng trắng tự nhiên. Vị tổng thống 66 tuổi đã "gợi ý" như vậy khi thấy bộ răng vàng của một nữ sinh viên.

Từ năm 1990 đến nay, đã bày tỏ sự không hài lòng khi nam sinh viên để tóc và râu xồm xoàm. Sau lời nói của ông, chẳng ai còn nhìn thấy hình ảnh của các nam sinh râu tóc dài trong các trường đại học nữa. Có lần ông cũng nói rằng ông thích các cô gái để kiểu tóc truyền thống và đội mũ lông. Thế là sau đó, sự yêu thích này trở thành nội quy của tất cả các trường nữ sinh. Ngoài ra, vị Tổng thống còn ra một sắc lệnh kỳ quặc khi yêu cầu những người nước ngoài muốn cưới một công dân Turkmenistan phải nộp số tiền đặt cọc 50.000 USD.

Nhà lãnh đạo Niyazov nổi tiếng là chú ý đến từng chi tiết và cư xử lạ lùng. Ông từng tuyên bố cả nước lấy ngày 10/7 hằng năm làm ngày nghỉ lễ để tôn vinh quả dưa, một trong những mặt hàng xuất khẩu chính của đất nước này, còn ngày 27/4 là ngày của con ngựa.



Ông cũng nổi tiếng là nhà độc tài đàn áp mạnh nhất. Đảng Cộng sản Turkmenistan được đổi tên thành Đảng Dân chủ Turkmenistan, và là đảng duy nhất được hoạt động. Ông cho bắt bỏ tù những người có tư tưởng đối lập. Các hệ thống báo chí và Internet đều kiểm soát chặt chẽ.

Ông ta đã ban hành các cải cách y tế và xã hội mang tính đột phá, đóng cửa tất cả các bệnh viện ở bên ngoài thủ đô và sa thải 15.000 nhân viên y tế công. Niyazov cũng cho đóng cửa tất cả các quán cà phê Internet cũng như các thư viện ở vùng nông thôn. Năm 2006, 1/3 người cao tuổi ở Turkmenistan bị ngừng trả lương hưu và được lệnh phải trả lại cho chính phủ của Niyazov tổng số tiền lương đã nhận hai năm trước đó.

Số người chết sau đó vì nghèo khó, bệnh tật và đói khát có thể lên tới hàng chục ngàn người, nếu không muốn nói là nhiều hơn. Tuy nhiên, Niyazov từ chối thừa nhận rằng các chính sách của ông có bất kỳ tác động tiêu cực nào tới người dân.


Hình ảnh của ngài Tổng thống vĩ đại có trong khắp các tờ tiền

Trong cuộc bầu cử Tổng Thống vào năm 1992, Niyazov là ứng cử viên độc nhất trúng cử, là cuộc bầu cử đầu tiên khi nước này được độc lập. Tháng 12/1999, Quốc hội Turkmenistan thông qua luật cho phép Niyazov giữ chức Tổng thống suốt đời (President for Life), quả thật tiện lợi cho đất nước không phải tổ chức bầu cử Tổng thống nhiều nữa kể từ khi có Hiến pháp và luật bầu cử Tổng thống!

Nhưng rất tiếc, ông đã đột ngột dừng sứ mệnh "tổng thống suốt đời" của mình khi từ trần tại Aşgabat ngày 21/12/2006, thọ 66 tuổi.

Mặc dù là nước có nhiều khí đốt hàng thứ năm thế giới nhưng "Người cha đáng kính của mọi người dân Turkmenistan " vẫn để cho kinh tế đất nước kém phát triển và hơn 60% người dân thất nghiệp. Ông chủ yếu không tiếc tiền dân đầu tư xây dựng những công trình hoành tráng. Ông ra lệnh tạo dựng một hồ nước ngay giữa sa mạc khô cằn, đồng thời cho xây một khu nghỉ dưỡng trượt tuyết tại khu vực đồi núi giáp biên giới Iran, nơi không bao giờ có tuyết rơi. Niyazov đã cho xây cất một dinh Tổng Thống làm toàn bằng đá hoa cương tại thủ đô Ashgabat. Ở vùng ngoại ô ông cho xây cất 30 khách sạn đồ sộ nhưng ít khi nào sử dụng để đón tiếp ai. Cũng vì lý do đó, đến nay chính phủ Turkmenistan vẫn còn nợ gần 2.3 tỉ đô la.

Sau khi ông mất, người ta đã cho dỡ bỏ bức tượng xoay tròn bằng vàng tạc hình ông khỏi đỉnh tượng đài Arch of Neutrality ở thủ đô Ashgabat.


Bỏ thích · · Chia sẻ

  • Bạn và 4 người khác người khác thích điều này.
  • Bùi Quang Minh Vì chúng ta ở châu Á nên chứng kiến nhiều nhân vật rất kỳ lạ. Sớm gia nhập các Đảng phái, sớm được tôn sùng là lãnh tụ tối cao, sớm có sách bắt người khác phải đọc, phải học, sớm được in tiền, tượng đài. Tất nhiên sớm vơ vét và tiên hoang... Sự hoang dã của Nhà Nước ở châu Á là như vậy!!!
  • Cuong Dinh Nguyen Giông' như phim Dictator :" Aladin or Aladin " " A Boy or an abortion"
  • Cuong Dinh Nguyen Khi nào mới có Vietnamese dream khi mà lãnh đạo tự bỏ tiền túi ra vận động tranh cử với những lập trường rõ ràng, đề cao lợi ích của quốc gia, của nhân dân .